e

Thứ Tư, tháng 7 31, 2024

Nhà máy nhiệt điện lớn nhất Việt Nam đạt doanh thu trên 7.000 tỷ đồng

 Trong tháng 7/2024, nhà máy ước tính sản xuất 235 triệu kWh với doanh thu khoảng 600 tỷ đồng.

Hàng trăm héc-ta sầu riêng của bầu Đức sắp thành ‘mỏ vàng’ nhờ thu hoạch nghịch vụ

7 tháng đầu năm 2024: Bình quân mỗi tháng có hơn 17.900 doanh nghiệp rút khỏi thị trường

Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 (thuộc Công ty Điện lực Dầu khí Hà Tĩnh) đã đạt sản lượng điện thương phẩm 3.799 triệu kWh và doanh thu 7.037 tỷ đồng trong 7 tháng đầu năm 2024. Để đạt được kết quả này, nhà máy đã triển khai nhiều giải pháp để duy trì an toàn và ổn định hoạt động của hai tổ máy phát điện với tổng công suất 1.200MW.

Nhà máy chủ động trong việc đảm bảo nguồn nguyên liệu, duy trì công tác bảo trì, bảo dưỡng thường xuyên các hệ thống máy móc và thiết bị theo quy định. Công ty cũng tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp an toàn và phòng chống cháy nổ trong quá trình vận hành.

Trong tháng 7/2024, nhà máy ước tính sản xuất 235 triệu kWh với doanh thu khoảng 600 tỷ đồng. Điều này nâng tổng sản lượng điện thương phẩm lên 3.799 triệu kWh và doanh thu đạt 7.037 tỷ đồng trong 7 tháng đầu năm 2024.

Nhà máy nhiệt điện lớn nhất Việt Nam đạt doanh thu trên 7.000 tỷ đồng
Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1

Từ ngày 15/8/2024, nhà máy sẽ triển khai “nhiệm vụ kép” gồm vận hành ổn định tổ máy phát điện số 1 và trung tu tổ máy số 2. Công tác trung tu dự kiến kéo dài đến ngày 19/10/2024 với sự tham gia của hơn 1.000 chuyên gia, kỹ sư và công nhân kỹ thuật trong và ngoài nước. Mục tiêu là đảm bảo tổ máy phát điện số 2 hoạt động trở lại an toàn và hiệu quả, đồng thời đảm bảo phát điện phục vụ nền kinh tế đất nước trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch COVID-19.

Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 có công suất 1.200MW (gồm 2 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 600MW) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nằm trong tổ sơ đồ điện VI về quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 – 2015, có xét đến năm 2025 và được phép áp dụng cơ chế đặc thù để đầu tư xây dựng các công trình điện cấp bách giai đoạn 2006 - 2010.

Đây là nhà máy nhiệt điện lớn nhất Việt Nam và doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư. Tập đoàn Dầu khí Việt Nam là chủ đầu tư và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam làm tổng thầu EPC cùng với các nhà thầu phụ có chức năng trong nước thực hiện.

TheoNguoiquansat.vn


Hệ thống lưu trữ điện năng - Làn sóng công nghệ tiếp theo của ngành năng lượng Việt Nam?

 Sự phát triển nhanh chóng của năng lượng tái tạo tại Việt Nam, đặc biệt là năng lượng điện gió, mặt trời đòi hỏi phải áp dụng hệ thống pin lưu trữ điện (BESS) để giải quyết tình trạng không liên tục của các nguồn này và đảm bảo độ tin cậy của lưới điện. Phân tích chuyên sâu về vấn đề này, Tạp chí năng lượng Việt Nam xin giới thiệu bài viết của Nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp [*] dưới đây. Trân trọng gửi tới các chuyên gia, nhà quản lý và bạn đọc.

Tóm tắt:

Bài viết này cung cấp tổng quan về các nguyên tắc cơ bản của BESS, bao gồm các nguyên tắc hoạt động, ý nghĩa kinh tế và các lợi ích tiềm năng cho Việt Nam. Mặc dù hiện tại Việt Nam chưa triển khai BESS trên quy mô lớn, nhưng thị trường toàn cầu đang phát triển nhanh chóng, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ và chi phí giảm. Bài viết xem xét tình hình hiện tại của BESS tại Việt Nam, nhấn mạnh năng lực sản xuất và các thách thức về pháp lý. Bài viết cũng đề cập đến các cách tiếp cận chiến lược được nêu trong Quy hoạch điện VIII của Việt Nam và các dự báo dài hạn về việc tích hợp BESS. Mặc dù BESS có tiềm năng cải thiện đáng kể bối cảnh năng lượng của Việt Nam, nhưng việc triển khai thành công sẽ phụ thuộc vào việc giải quyết các thách thức về kinh tế, pháp lý và kỹ thuật.

Hiểu về hệ thống pin lưu trữ điện năng:

Để nắm được tác động tiềm năng của BESS tới lĩnh vực điện năng của Việt Nam, đầu tiên là phải hiểu được hệ thống này vận hành như thế nào và những đặc trưng cốt lõi của nó. BESS lưu trữ lại điện năng để dùng sau. Những hệ thống này đóng vai trò thiết yếu trong việc điều tiết cung, cầu điện năng trong lưới điện có nguồn năng lượng tái tạo tham gia với tỷ trọng lớn do sự dao động biến thiên của năng lượng này.

Hệ thống lưu trữ điện năng - Công nghệ tiếp theo của ngành năng lượng Việt Nam
Ảnh minh họa của tác giả.

BESS vận hành dựa trên một nguyên tắc đơn giản: Tích điện (hay lưu trữ điện năng) khi hệ thống thừa điện và phát điện (hay giải phóng điện năng) khi hệ thống thiếu điện. Quá trình này liên quan đến ba bước:

1. Sạc điện: Lượng điện dư thừa, thường là từ các nguồn tái tạo như các tấm quang mặt trời vào buổi trưa, được dùng để sạc pin.

2. Lưu trữ: Điện được lưu trong các tấm pin đến khi cần dùng. Thời gian lưu trữ thông thường là bốn giờ.

3. Phát điện: Khi nhu cầu điện vượt quá công suất hiện có có thể cấp điện, chẳng hạn như vào buổi tối, lượng điện năng lưu trữ sẽ được phát lên lưới điện.

BESS là công nghệ rất linh hoạt, có thể dùng cho quy mô nhỏ từ chiếc tủ lạnh trong hộ gia đình cho đến các dự án lớn hơn cả một sân bóng. BESS lắp đặt trong hộ gia đình thường có dung lượng 3-20 kWh. Ví dụ, ở Mỹ, lắp đặt một pin lưu trữ hiệu Tesla Powerwall cần chi phí khoảng 11.500 USD cho dung lượng 13,5 kWh. Những hệ thống như thế này tăng cường việc “tự sản, tự tiêu” bằng cách lưu giữ năng lượng mặt trời dư thừa thu được từ ban ngày để dự trữ dùng vào ban đêm, hoặc trong những thời điểm mây mù. Hệ thống này cũng hỗ trợ lưới điện bằng cách giảm tải trong giờ cao điểm và có thể cung cấp tới 11,5 kW điện dự phòng khi mất điện.

Kết hợp BESS với các dự án năng lượng tái tạo, chẳng hạn như với một trang trại điện gió, mặt trời có công suất 30 MW, sẽ tăng cường tính hiệu quả và ổn định của những dự án này. Nhờ vào việc lưu trữ lượng điện năng dư thừa ở những thời điểm đạt công suất cực đại, BESS có thể giảm thiểu các trường hợp hệ thống phải chạy dưới mức công suất và đảm bảo nguồn cung điện năng ổn định. Sự kết hợp này cũng giúp việc quản lý điện năng tốt hơn và nối lưới dễ dàng hơn.

Dự án điện Mặt trời Edwards & Sanborn tích hợp pin lưu trữ ở California đi vào hoạt động từ tháng 1/2024 là dự án có pin lưu trữ lớn nhất thế giới, với dung lượng 3.287 MWh để hỗ trợ 1,9 triệu tấm quang điện.

BESS cho dự án năng lượng mặt trời quy mô lớn là hệ thống có thể vận hành độc lập so với nguồn phát điện gió, mặt trời. Các hệ thống này thường kết nối với lưới điện và có thể lưu trữ hơn 10 MWh. Chẳng hạn như dự án Hornsdale Power Reserve ở Nam Úc có khả năng lưu trữ với công suất 150 MW và dung lượng 193,5 MWh.

Như nhiều công nghệ mới nổi khác, BESS phát triển nhanh chóng, với nhiều loại pin và hàng loạt các đổi mới sáng tạo vẫn đang phát triển, cạnh tranh nhau và định hình tương lai. Trong nhiều loại pin đang được sử dụng, loại phổ biến và thông dụng nhất là pin Lithium-Ion. Các loại pin này được ưu ái, vì mật độ năng lượng, hiệu suất và tuổi thọ cao. Các pin Lithium-ion được sử dụng trong BESS có hiệu suất 95% và vòng đời khoảng 10 nghìn lần sạc. Các loại pin khác có thể kể đến là chì-axit, sodium-sulfur, pin dòng oxy hóa - khử, mỗi loại có những ưu điểm và ứng dụng riêng. Gần đây người ta còn phát triển ra loại pin rắn, thậm chí còn có mật độ điện năng cao hơn và an toàn hơn cả pin lithium - ion.

Mặc dù công nghệ BESS hết sức hứa hẹn, mức độ phổ biến của nó phụ thuộc rất nhiều vào sự cân bằng giữa chi phí - lợi ích. Hãy cùng nhau phân tích chi phí và lợi ích liên quan đến việc triển khai BESS trong bối cảnh Việt Nam.

Chi phí lắp đặt và vận hành BESS là một rào cản rất lớn trong việc sử dụng công nghệ này. Vào năm 2023, Công ty Tư vấn Xây dựng điện 2 (PECC2) thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam ước tính chi phí cho hệ thống BESS 2 MWh là 360-420 USD/kWh và chi phí đầu tư này đòi hỏi giá điện của Việt Nam phải lớn hơn 18 US Cent/kWh thì mới có lợi nhuận - tức là hơn gấp đôi giá hiện nay.

Tuy nhiên, chi phí BESS đang giảm nhanh chóng. Theo phân tích của Bloomberg NEF: Chi phí cho một bộ pin lithium ion đã giảm 89% trong vòng một thập kỷ qua. Xu hướng này xuất phát từ những đột phá trong công nghệ pin, lợi thế kinh tế về quy mô trong sản xuất, cũng như sự gia tăng cạnh tranh trong thị trường.

Báo cáo Cẩm nang Công nghệ Việt Nam 2023 ước tính rằng: Chi phí đầu tư thông thường cho BESS dự kiến sẽ giảm từ 578 USD/kWh xuống còn 264 USD/kWh vào năm 2030 (giảm hơn một nửa).

Những lo ngại khác liên quan đến BESS (bao gồm nguồn cung Lithium hạn chế, tác động môi trường của quá trình sản xuất, thải bỏ và một vấn đề dễ thấy ở Việt Nam) đó là sự phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ, cũng như chuyên môn của nước ngoài.

Tuy nhiên, ngoài những thách thức đó, BESS cũng mang lại những lợi ích kinh tế vượt trội, đặc biệt là khi các nguồn từ năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu điện năng. Cụ thể:

- Tăng cường hiệu suất: BESS có thể lưu giữ điện năng sản xuất được trong các thời điểm nhu cầu điện thấp và phát điện khi nhu cầu dùng điện lên cao. Như vậy, có nghĩa là BESS tăng hiệu suất của lưới điện nói chung và làm giảm nhu cầu phải xây thêm nhà máy điện để phát cao điểm. Nếu so với giá điện khí, BESS đã có thể cạnh tranh với các tua bin khí chu trình mở và có thể là cả với các động cơ khí đốt trong.

- Cải thiện độ tin cậy: Bằng cách cung cấp nguồn điện ổn định và đáng tin cậy, BESS có thể giúp giảm tần suất và mức độ nghiêm trọng của các sự cố ngắt điện. Điều này vô cùng quan trọng cho một nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng như Việt Nam. BESS có thể cung cấp khả năng khởi động lại hệ thống - đây là khả năng của một nhà máy điện có thể kích hoạt trở lại và phục hồi lưới điện sau khi một phần, hoặc toàn bộ hệ thống bị mất điện. Tăng cường sự bền bỉ và tốc độ phục hồi của lưới điện sau những sự cố ngắt điện lớn.

- Quản lý điện năng: BESS có thể giúp quản lý sự bất định thất thường của các nguồn năng lượng tái tạo, đảm bảo nguồn cung điện năng cân bằng và ổn định. Việt Nam đang có 20,1 GW điện gió, mặt trời và sự nghẽn mạch trong lưới truyền tải điện đôi khi dẫn đến việc lãng phí điện năng. Trong nhiều thị trường điện tái tạo đang phát triển nhanh chóng, tỷ lệ thất thoát này có thể lên tới 10-20% tổng sản lượng điện tái tạo trong các giờ cao điểm.

- Ổn định lưới điện: BESS có thể cung cấp các dịch vụ phụ trợ như điều tiết tần số và ổn định điện áp, đều thiết yếu đối với việc duy trì sự ổn định của lưới điện. Ở Philippines chẳng hạn, dự án San Miguel Global đặt khoảng 1.000 MW BESS, vận hành ở 32 điểm trên khắp cả nước. Họ bắt đầu vào năm 2018 với hệ thống lưu trữ chỉ 10 MW ở lưới điện Luzon tại Masiloc, Zambales. Nhìn ảnh 1:

Hệ thống pin lưu trữ điện năng - Nút thắt cho năng lượng tái tạo Việt Nam?
Ảnh 1: Dự án San Miguel Global. Nguồn: Fluence.

Với chi phí ngày càng giảm và nhu cầu ngày càng lớn, tính kinh tế của BESS rất hứa hẹn. Theo Báo cáo Triển vọng Năng lượng Thế giới 2023 của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA): Công suất lắp đặt của BESS sẽ tăng từ 45 GW vào năm 2022 lên đến 552 GW vào năm 2030 trong kịch bản “Mọi chính sách đều không đổi”, lên đến 725 GW vào năm 2030 trong kịch bản “Các quốc gia thực hiện các cam kết về khí hậu của mình” và lên đến 1.018 GW vào năm 2030 trong kịch bản “Phát thải ròng bằng 0 thành hiện thực năm 2050”.

Thực trạng BESS ở Việt Nam:

Tính đến năm 2024, Việt Nam thực tế chưa có một hệ thống BESS nào được lắp đặt, trừ hệ thống BESS đang vận hành tại PECC2, công suất 700 kW/2 MWh.

Dự án lưu trữ điện năng lớn nhất tại Việt Nam là Thủy điện Tích năng Bác Ái, ở tỉnh Ninh Thuận. Dự án này có công suất 1.200 MW được kỳ vọng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định lưới điện sau khi hoàn thiện trong vài năm tới. Dự án này không dùng pin. Thay vào đó sẽ bơm nước lên để dự trữ điện và khi cần thì phát điện như nhà máy thủy điện. Bài toán chi phí - lợi ích của BESS không hiệu quả bằng thủy điện tích năng - đó là lý do tại sao ưu tiên cho các dự án như vậy là có lý.

Một startup có tên Alternō đề xuất “pin cát” như một công nghệ lưu trữ năng lượng cho Việt Nam. Đây cũng không phải là BESS. Thay vì họ sử dụng điện để sấy nông sản trực tiếp, điện được dùng để hun nóng một khối cát lớn. Nếu cách nhiệt tốt, người ta có thể giữ nóng cát trong nhiều tuần - đó là cách để lưu trữ điện tái tạo, hoặc điện dư thừa trong những giờ không phải cao điểm để dùng về sau.

Việt Nam hiện nay đang trong cuộc đua để cung cấp công nghệ cho toàn cầu. Vingroup (Việt Nam) và Gotion (một nhà sản xuất pin ở Trung Quốc) đã đầu tư vào sản xuất pin Lithion-iron-photphat vào năm 2022 và xây một nhà máy ở Hà Tĩnh. Kỳ vọng có thể đi vào hoạt động trong quý 3/2024, với tổng sản lượng điện lưu trữ là 5 GWh mỗi năm. Mặc dù chủ yếu tập trung vào xe điện, nhưng dự án này sẽ thúc đẩy đáng kể chuỗi cung cấp nội địa cho BESS.

Siemens và AES đang sản xuất Fluence Cube, các giải pháp lưu trữ năng lượng dựa trên pin lithion - ion (BESS) ở Việt Nam, với khoảng gần 2 GW xuất khẩu mỗi năm. Cạnh đó, LG Chem và Samsung SDI cũng đang xây nhà máy pin tại Việt Nam.

Việt Nam có thể sản xuất các linh kiện của BESS, nhưng ứng dụng chúng trong nước là cả một thách thức. Trong nước hầu như có rất ít kinh nghiệm để triển khai các dự án BESS. Hơn nữa, quy định hiện nay cũng chưa hướng dẫn việc lắp đặt BESS, hay giúp các dự án này có thể tạo ra lợi nhuận.

Để tìm giải pháp le lói giữa những thách thức này, hãy thử phân tích hướng tiếp cận chiến lược của Việt Nam trong việc triển khai BESS. Quy hoạch điện VIII nhấn mạnh: “Định hướng phát triển điện mặt trời phải kết hợp với pin lưu trữ nếu chi phí phù hợp” và nên “được lắp đặt ở gần nguồn điện gió, hoặc điện mặt trời, hoặc các trung tâm truyền tải”. Quy hoạch này kỳ vọng pin lưu trữ sẽ đạt công suất 300 MW vào năm 2030. Con số này mới chỉ chiếm 0,2% tổng công suất điện của Việt Nam. Quy hoạch này ngầm đánh giá rằng: Pin lưu trữ vẫn quá đắt đỏ cho những dự án quy mô lớn, và gợi ý rằng: Nên triển khai các dự án thử nghiệm để đánh giá mức độ khả thi, lợi ích của BESS trong những điều kiện, bối cảnh khác nhau, bao gồm cả các dự án lưu trữ ở quy mô lớn, kết hợp với các nhà máy điện tái tạo.

Quy hoạch điện VIII hướng tới mục tiêu tăng trưởng điện tái tạo vượt bậc vào năm 2030: 21 GW điện gió trên bờ, 7 GW điện gió xa bờ và 18-20 GW điện mặt trời. Tuy nhiên, đề xuất của Quy hoạch về BESS chỉ dừng lại ở quy mô 300 MW - dấy lên những lo ngại về liệu nó có đủ để gánh vác sự bất ổn của những nguồn năng lượng tái tạo.

Hệ thống pin lưu trữ điện năng - Nút thắt cho năng lượng tái tạo Việt Nam?
Ảnh 2: “Đường công con vịt con vịt California” đã xuất hiện ở Việt Nam. Nguồn: Tạp chí Năng lượng Việt Nam.

Ảnh 2 chỉ ra rằng: Công suất điện mặt trời hiện nay đã tạo ra những tác động nặng nề tới nhu cầu dùng điện. Công suất điện từ các nguồn không phải năng lượng tái tạo tăng từ 20 GW vào sáng sớm rồi hạ xuống 9 GW vào giữa trưa, trước khi quay trở lại 20 GW vào ban đêm. Yêu cầu về sự linh động như thế này sẽ càng gia tăng lên trong tương lai. Các hệ thống điện mặt trời mái nhà cho mục đích tự sản tự tiêu, vốn không bị ràng buộc bởi mục tiêu 18-20 GW dành cho điện mặt trời, thậm chí còn có thể buộc điện than và khí giảm công suất xuống 5 tới 10 GW từ năm 2030.

Việt Nam đang quy hoạch thêm các hệ thống thủy điện tích năng. Nhưng như Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2024 (EOR24) của Cục Điện lực và Năng lượng Tái tạo kết hợp Cơ quan Năng lượng Đan Mạch chỉ ra: “Bất kỳ sự gia tăng sản lượng năng lượng tái tạo đáng kể nào cũng sẽ dẫn đến khó khăn trong phương thức vận hành hiện tại này, vì có những giới hạn tự nhiên và yêu cầu kỹ thuật đối với khả năng cân bằng của các nhà máy thủy điện của Việt Nam”.

Trong khi triển vọng của BESS tại Việt Nam có vẻ khiêm tốn trong tương lai gần, triển vọng trong tương lai xa lại vẽ ra một bức tranh hoàn toàn khác. Tầm nhìn đến năm 2050 của Quy hoạch điện VIII cho thấy: Công suất của thủy điện và pin lưu trữ sẽ đạt 30.650 - 45.550 MW để bắt kịp với tỷ lệ điện tái tạo cao. Tỷ trọng của thủy điện tích năng sẽ bị hạn chế bởi những giới hạn về địa hình, địa chất.

BESS cũng có vai trò lớn trong các kịch bản phát thải ròng bằng 0 ở Việt Nam, nhưng cũng tùy cách nhìn nhận. Một nghiên cứu của McKinsey năm 2024 nhận định: Việt Nam cần 20 GW pin lưu trữ vào năm 2030 và khoảng 60 GW vào năm 2050. Trong kịch bản của EOR24 lại cho thấy: Thủy điện tích năng sẽ đóng vai trò chính trong nhu cầu lưu trữ điện tới năm 2045, khi nó đạt được tối đa tiềm năng là 26 GW/200 GWh. Pin lưu trữ ở quy mô lớn sẽ được lắp đặt vào thời điểm 2035-2040 với mức đầu tư khiêm tốn (0,6-1,5 GW). Việc đầu tư vào pin lưu trữ sẽ tăng trưởng nhanh chóng sau năm 2040, đạt được 98 GW trong kịch bản lạc quan nhất vào năm 2050.

EOR24 cho rằng: Các công nghệ lưu trữ như pin Lithium-ion rất phù hợp trong việc dự phòng để đảm bảo một hệ thống điện ổn định, đáng tin cậy và đề xuất Việt Nam cần hỗ trợ dự án lưu trữ điện quy mô lớn sau năm 2030.

Với các chính sách và đầu tư phù hợp, BESS có thể thay đổi bức tranh năng lượng của Việt Nam, khiến nó trở nên bền vững hơn, ổn định hơn, đáng tin cậy hơn. Vì Việt Nam vẫn đang tiếp tục phát triển và lớn mạnh, tích hợp BESS là quan trọng để đảm bảo nguồn cung điện bền bỉ, ổn định.

Ai được hưởng lợi từ BESS?

BESS không chỉ quan trọng với EVN, mà còn với cả các nhà sản xuất điện tái tạo và người sử dụng điện. Nhưng ai được hưởng lợi ích và sẵn sàng bỏ tiền đầu tư pin lưu trữ?

EVN là một doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm phát điện, truyền tải và phân phối điện ở Việt Nam có thể sẽ thu được lợi từ việc tăng hiệu suất của hệ thống nhờ vào việc triển khai BESS. Hiện EVN đang chuẩn bị các dự án thử nghiệm để tích hợp BESS vào hạ tầng lưới điện. Theo Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII, đầu tư vào lưu trữ năng lượng tới năm 2030 bao gồm:

- Một dự án BESS thử nghiệm công suất 50 MW/50 MWh của EVN để phát triển các dịch vụ phụ trợ, đánh giá được cách thiết kế cơ chế tính giá và thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật.

- Các dự án thử nghiệm thêm như BESS công suất 7 MW/7 MWh tích hợp với điện mặt trời 50 MW và BESS công suất 105 MW/105 MWh tích hợp với điện mặt trời 400 MW.

- Các dự án lưu trữ pin khác, công suất 138 MW.

Nguồn tài chính được kỳ vọng sẽ đến từ các đối tác quốc tế, theo tổ chức Đối tác Chuyển dịch Năng lượng là các đối tác phát triển như Ngân hàng Phát triển châu Á và các ngân hàng thương mại của Việt Nam. Một nghiên cứu của Viện Năng lượng (xuất bản tháng 6/2024) chỉ ra rằng: “Một dự án BESS công suất 50 MW có thể đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý sự ổn định tần số của hệ thống điện Việt Nam. Có thể quan sát thấy rằng, vị trí của BESS đặt ở đâu cũng không có ảnh hưởng nhiều tới sự ổn định của tần số điện. Bởi vậy, với mục tiêu tăng cường sự ổn định tần số, có thể lắp đặt BESS ở bất kỳ nút nào trong hệ thống điện (nếu sẵn đất và kế hoạch kết nối cho phép)”.

Các chủ dự án điện tái tạo (điện gió, mặt trời) cũng được hưởng lợi trong việc tích hợp BESS. BESS tạo điều kiện để các chủ dự án tích trữ lượng điện năng dư thừa trong các thời điểm sản xuất điện đạt mức cực đại. Chẳng hạn như vào buổi trưa (đối với điện mặt trời) và phát điện trong những lúc nhu cầu cao điểm (vào buổi tối). Pin lưu trữ giúp các chủ dự án giảm thất thoát và bán dịch vụ phụ trợ cho lưới điện. Về nguyên tắc, Quy hoạch điện VIII không đặt ra giới hạn gì với các dự án kết hợp điện mặt trời + BESS, hay điện gió + BESS, vì các dự án này không bị tính vào mục tiêu đạt 300 MW BESS vào năm 2030.

Tuy nhiên, liệu BESS có giúp tăng lợi nhuận chung của một dự án điện tái tạo hay không sẽ phụ thuộc vào điều kiện thị trường. Phần tiếp theo, chúng ta sẽ thấy điều kiện hiện nay đang có vẻ bất lợi.

Người sử dụng điện (bao gồm cả các hộ gia đình, doanh nghiệp) cũng có thể có vai trò trong việc tiếp nhận BESS. BESS cho phép người tiêu thụ điện có thể lưu trữ điện năng từ pin mặt trời mái nhà và sử dụng nó trong những thời điểm không có mặt trời để tạo ra điện (chẳng hạn như vào ban đêm, hoặc trong những ngày mây mù). Điều này giảm sự phụ thuộc vào lưới điện và tăng cường an ninh năng lượng - các nhà máy cũng có thể bớt đi mối lo ngại về phụ thuộc vào lưới điện khi lắp đặt điện mặt trời mái nhà có gắn bộ lưu trữ.

Công ty Tư vấn về Năng lượng Wood Mackenzie trong một báo cáo chỉ ra rằng: 11,1% hệ thống điện mặt trời hộ gia đình và 5,3% hệ thống điện mặt trời không phải của hộ gia đình lắp đặt vào quý 1/2023 ở Mỹ có đi kèm với pin lưu trữ.

Các quy định pháp lý:

Chính phủ cũng đang cân nhắc tạo ra một môi trường thuận lợi cho BESS (thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho việc tham gia thị trường và đảm bảo bù giá công bằng cho những dịch vụ BESS cung cấp).

Khung chính sách cho BESS ở Việt Nam vẫn đang trong trứng nước, nhưng nhiều khả năng nó sẽ được xây dựng dựa trên các chính sách hiện tại về năng lượng. Luật Điện lực (sửa đổi) là khung bao trùm toàn bộ lĩnh vực năng lượng, trong đó sẽ cần những quy định cụ thể hơn để phát triển BESS.

Bộ Công Thương đang chủ động theo dõi việc triển khai các chính sách về năng lượng, phát hiện các vấn đề và đề xuất các chỉnh sửa (nếu cần thiết). Cách tiếp cận mang tính thích ứng này vô cùng quan trọng, vì công nghệ BESS vẫn còn nhiều thay đổi và tích hợp vào các loại hình năng lượng khác nhau. Việt Nam có các chính sách để hỗ trợ điện tái tạo, nhưng chưa có chính sách để triển khai BESS. Đề ra các hướng dẫn, cơ chế thị trường, các tín hiệu giá cả tích cực và liên tục thảo luận là những điều cần thiết để hình thành một môi trường thích hợp cho BESS:

- Thiếu hướng dẫn: Thông tư 36/2018/TT-BCT đưa ra quá trình phê duyệt các dự án phát điện, nhưng không đề cập đến BESS. Không có một hướng dẫn mạch lạc nào cho việc lắp đặt, vận hành, bảo trì bảo dưỡng BESS - điều này tạo ra những nghi ngại cho những nhà đầu tư. Luôn có rất nhiều rủi ro khi dự trữ một lượng lớn điện năng trong một không gian nhỏ. Các tiêu chuẩn kỹ thuật, nguyên tắc an toàn và các cân nhắc về mặt môi trường là cần thiết cho việc quản trị những rủi ro liên quan tới trách nhiệm pháp lý.

- Tham gia thị trường: BESS đối diện với rất nhiều rào cản để có thể tham gia thị trường điện năng. Hiện nay chưa có một cơ chế nào được thiết lập để BESS có thể cung cấp và được bù giá cho dịch vụ phụ trợ như điều tiết tần số và ổn định điện áp. Một dự án BESS có thể được hưởng lợi từ giá công suất. Ý tưởng này vẫn chưa được triển khai ở thị trường điện Việt Nam, mặc dù người ta đã bắt đầu thảo luận về giá điện hai thành phần.

- Khuyến khích tài chính: Cấu trúc của giá điện hiện tại khó có thể thuyết phục ai đó đầu tư vào BESS. Lưu trữ năng lượng sẽ có lợi nhuận hơn nếu như có một khoảng cách lớn giữa giá bán buôn điện trong và ngoài giờ cao điểm. Ngược lại, các quy định hiện hành của Việt Nam đang hướng đến việc giảm khoảng cách đó.

Các nước khác đã tạo ra luật tương thích rất tốt với BESS. Chẳng hạn như ở Úc, BESS có thể sinh lời bằng nhiều cách mua, bán điện ở các mức giá khác nhau và hỗ trợ kiểm soát tần số của lưới điện. Tuy nhiên, công nghệ này lại không dành cho các quốc gia như Mỹ, Trung Quốc, Úc - bởi thị trường BESS ở các nước này chỉ nằm trong vài GW mỗi năm. Một dự án có tên Oasis de Atacama ở Chile, có quy mô 1 GW điện mặt trời và công suất lưu trữ điện là 4,1 GW đang gần tiến dần tới việc có lợi nhuận. Thậm chí Tập đoàn Điện Mặt trời của Ấn Độ và Công ty Xlinks từ Morroco và Anh còn tuyên bố triển khai những dự án lớn hơn.

Trong Quy hoạch điện VIII, Việt Nam nhắm mục tiêu điện tái tạo sẽ chiếm 30,9-39,2% tổng sản lượng điện vào năm 2030, và hướng tới 47% (với điều kiện có sự giúp đỡ của các quốc gia đối tác quốc tế). Để mục tiêu này thành hiện thực đòi hỏi sự hợp tác vô cùng lớn của hệ thống lưu trữ. BESS là một lĩnh vực mà chuyển giao công nghệ từ một nước phát triển sang nước đang phát triển sẽ đem lại tác động to lớn đối với việc chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kết luận:

Vào năm 2024, các hệ thống BESS đang trở nên thiết yếu trong việc quản trị sự bất định của các nguồn điện tái tạo, giảm thiểu tắc nghẽn lưới điện và giảm thiểu thất thoát điện năng. Nếu đã quy hoạch một nền tảng điện tái tạo vững chắc, bước tiếp theo của Việt Nam là tích hợp BESS để có thể tận dụng tối đa các nguồn này.

Tính chất linh hoạt của BESS khiến nó tương thích với nhiều kiểu quy mô và phù hợp với các doanh nghiệp từ EVN cho đến các nhà phát triển dự án điện tái tạo, cũng như người tiêu thụ điện. Để triển khai hiệu quả ở Việt Nam, cần một cách tiếp cận tổng hợp từ tất cả những người tham gia. Chính phủ bắt buộc phải dẫn dắt bằng cách thiết lập khung chính sách bao gồm những hướng dẫn rõ ràng và cơ chế thị trường tương thích với lợi ích của phía tư nhân, cùng với nhu cầu điện năng của cộng đồng.

Thúc đẩy BESS có thể theo chân mô hình khuyến khích điện mặt trời mái nhà đã rất thành công, liên quan đến việc xây dựng các chiến dịch thay đổi nhận thức, nâng cao năng lực và các dự án thử nghiệm. Khi chi phí công nghệ giảm xuống và người ta ngày càng nhận ra lợi ích của lưu trữ điện năng, sẽ có càng nhiều nhà đầu tư muốn tham gia và những người tiêu thụ điện sẽ tận hưởng sự tiếp cận điện năng thoải mái hơn và cũng có thể tiết kiệm hóa đơn điện.

Mục đích hiện nay của Việt Nam là phát triển BESS với tổng công suất 300 MW đến năm 2030 có vẻ khiêm tốn, nhưng con số này không bao gồm những hệ thống đi kèm với điện mặt trời mái nhà. Để thúc đẩy một tương lai năng lượng bền bỉ, hiệu quả và bền vững hơn, Việt Nam nên đặt mục tiêu cao hơn. Mặt khác, cần sớm thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật, cơ chế thị trường cho dịch vụ phụ trợ, thúc đẩy các dự án thử nghiệm và đầu tư vào việc phát triển nguồn nhân lực trong nước cho BESS. Nỗ lực tổng hợp này sẽ giúp Việt Nam dịch chuyển sang một hệ thống năng lượng xanh hơn./.

[*] HÀ DƯƠNG MINH - NGHIÊN CỨU VIÊN CAO CẤP TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC QUỐC GIA PHÁP (CIRED/CNRS)

Thứ Hai, tháng 7 29, 2024

Turbine nổi sản xuất điện sóng công suất 1,25 MW

 Ocean Energy triển khai phao biến đổi năng lượng sóng 826 tấn OE-35 ở cơ sở thử nghiệm của Hải quân Mỹ ngoài khơi đảo Oahu trước khi nối với lưới điện Hawaii.

Hệ thống OE-35 sử dụng turbine Wells. Ảnh: Ocean Energy

Hệ thống OE-35 sử dụng turbine Wells. Ảnh: Ocean Energy

Có kích thước 38 x 18 m với mớn nước 9 m, OE-35 nằm ở vịnh Kaneohe tại vùng Windward của đảo Oahu, phía bắc của bán đảo Mōkapu, New Atlas hôm 26/7 đưa tin. Hệ thống không chỉ được thử nghiệm ở Hawaii mà cả Scotland trong dự án 12 triệu USD của Phòng hiệu suất năng lượng tái tạo thuộc Bộ Năng lượng Mỹ và Cơ quan năng lượng bền vững của Ireland (SEAI). Với công suất tiềm năng 1,25 MW, OE-35 khai thác năng lượng từ sóng biển bằng hệ thống khí luồng kép đặc biệt.

Một số hệ thống năng lượng sóng hoạt động bằng cách sử dụng sóng tràn qua để nén một cột khí giúp chạy turbine. Tuy nhiên, chúng thường hoạt động như một động cơ piston, với thì phát động đi kèm một khoảng lặng khi thông hơi và hệ thống tự khởi động lại trước cơn sóng tiếp theo.

OE-35 khác biệt ở chỗ sử dụng turbine hoạt động theo nguyên lý của turbine Wells do Alan Arthur Wells ở Đại học Queen Belfast phát minh vào cuối thập niên 1970. Đây là một turbine khí áp suất thấp quay liên tục theo một chiều độc lập với hướng của luồng khí. Nói cách khác, khi sóng nén khí trong 3 buồng bên trong phao, turbine xoay tròn. Sau đó không khí giãn nở và luồng khí đảo chiều, turbine vẫn xoay theo cùng hướng. Thiết kế này giúp loại bỏ cơ cấu và van phức tạp để xử lý luồng khí hai chiều.

Đây không phải là cách sản xuất điện hiệu quả nhất bởi cánh turbine có hệ số cản cao hơn turbine thông thường và hệ thống dễ chết máy. Tuy nhiên, nó hoạt động tốt đến mức chi nhánh của Ocean Energy ở Ireland hy vọng có thể sớm bàn giao OE-35 sau thử nghiệm cuối cùng và hệ thống sẽ được nối với lưới điện toàn quốc bằng cáp dưới biển.

"Sau hơn 15 năm thiết kế, thử nghiệm, kiểm tra và chế tạo, chúng tôi có thể tiến thêm một bước quan trọng hướng tới thương mại hóa thiết bị OE-35", giáo sư Tony Lewis, giám đốc công nghệ của Ocean Energy, cho biết. "Dự án quan trọng này hoạt động ở thời điểm mấu chốt đối với Mỹ và Ireland khi thế giới cần đẩy nhanh tốc độ giảm khí thải carbon bằng những công nghệ mới tiên tiến".

An Khang (Theo New Atlas)

'Siêu' ý tưởng phát triển lưới điện ngoài hành tinh đầu tiên:

 

'Siêu' ý tưởng phát triển lưới điện ngoài hành tinh đầu tiên: Xây mạng lưới vệ tinh trên độ cao 1.500km, cung cấp lượng điện gấp 5 - 10 lần

Năng lượng Mặt Trời từ không gian có thể không còn là giấc mơ khoa học viễn tưởng nữa.

Star Catcher Industries, một startup có trụ sở tại Florida, Mỹ vừa huy động được 12,25 triệu USD để hiện thực hóa một ý tưởng đầy tham vọng: xây dựng mạng lưới vệ tinh truyền điện trên quỹ đạo Trái Đất thấp (LEO). Theo thông tin từ Space hôm 25/7, vệ tinh đầu tiên có thể được phóng lên ngay trong năm tới.
Mô phỏng một phần mạng lưới vệ tinh truyền điện đang phục vụ nhiều vệ tinh khách hàng. Ảnh: Star Catcher Industries

Mô phỏng một phần mạng lưới vệ tinh truyền điện đang phục vụ nhiều vệ tinh khách hàng. Ảnh: Star Catcher Industries

Khác với các hệ thống năng lượng Mặt Trời truyền thống, Star Catcher hướng đến việc cung cấp điện trực tiếp cho các vệ tinh đang hoạt động trên quỹ đạo, thay vì các khách hàng ở dưới mặt đất. Đây là một thị trường đầy tiềm năng, đặc biệt khi mà số lượng vệ tinh trên quỹ đạo LEO dự kiến sẽ tăng gấp 5 lần vào năm 2030, đạt con số 50.000. Với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ các "ông lớn" như Starlink của SpaceX, Star Catcher đang đặt cược vào một tương lai nơi không gian sẽ trở thành một "lưới điện khổng lồ."

Star Catcher Industries đang lên kế hoạch xây dựng một mạng lưới vệ tinh năng lượng Mặt Trời độc đáo, hoạt động ở độ cao khoảng 1.500km so với mặt đất. Các vệ tinh này sẽ thu thập năng lượng từ Mặt Trời và truyền trực tiếp đến các vệ tinh khác đang hoạt động trên quỹ đạo LEO, thông qua những chùm bức xạ có thể chuyển đổi hiệu quả thành điện năng.

Đáng chú ý, công suất của các chùm năng lượng này có thể điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với nhu cầu sử dụng điện năng đa dạng của các loại phương tiện vũ trụ khác nhau. Với hệ thống này, Star Catcher đặt mục tiêu cung cấp cho các vệ tinh một lượng điện năng gấp 5-10 lần so với công suất tự phát của chúng.

Star Catcher đặt mục tiêu cung cấp cho các vệ tinh một lượng điện năng gấp 5-10 lần so với công suất tự phát của chúng. Ảnh minh hoạ

Star Catcher đặt mục tiêu cung cấp cho các vệ tinh một lượng điện năng gấp 5-10 lần so với công suất tự phát của chúng. Ảnh minh hoạ

Andrew Rush, nhà đồng sáng lập kiêm CEO của Star Catcher Industries, chia sẻ: “Chúng tôi tin rằng cơ sở hạ tầng điện là yếu tố cốt lõi để xây dựng một nền văn minh và công nghiệp phát triển. Việc mở rộng mạng lưới điện này ra không gian, đặc biệt là quỹ đạo LEO và xa hơn nữa, sẽ tạo ra một cuộc cách mạng thực sự. Việc có thể cung cấp điện năng một cách ổn định và linh hoạt cho các phương tiện vũ trụ ở bất kỳ đâu trên quỹ đạo LEO sẽ mở ra vô vàn cơ hội mới, thúc đẩy nhân loại tiến vào một kỷ nguyên hoàng kim mới của khám phá không gian."

Số vốn mới huy động được sẽ được Star Catcher Industries sử dụng để đẩy nhanh quá trình phát triển và thương mại hóa công nghệ truyền tải năng lượng không dây của mình. Công ty sẽ bắt đầu bằng các thử nghiệm trên mặt đất để xác thực hiệu quả của công nghệ này. Dự kiến, vào cuối năm 2025, những thử nghiệm đầu tiên trên quỹ đạo sẽ được thực hiện, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng lưới điện vũ trụ.

Lưới điện vũ trụ hứa hẹn mang đến nhiều lợi ích to lớn. Ảnh minh hoạ

Lưới điện vũ trụ hứa hẹn mang đến nhiều lợi ích to lớn. Ảnh minh hoạ

Lưới điện vũ trụ hứa hẹn mang đến nhiều lợi ích to lớn. Ví dụ, các vệ tinh nhỏ và có công suất thấp sẽ có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn nhờ khả năng sạc pin thường xuyên. Ngoài ra, những phương tiện vũ trụ gặp sự cố về hệ thống điện hoặc pin năng lượng Mặt Trời cũng có thể được hỗ trợ kịp thời.

Không chỉ vậy, lưới điện vũ trụ còn đóng vai trò quan trọng trong các nhiệm vụ khám phá Mặt Trăng, đặc biệt ở những khu vực bị bóng tối bao phủ, nơi các nguồn năng lượng truyền thống không hoạt động hiệu quả. Việc sinh hoạt, sản xuất và các hoạt động khác trên quỹ đạo, vốn đòi hỏi một lượng điện năng lớn, cũng sẽ được hưởng lợi từ hệ thống này.

TheoNguoiquansat


Thứ Bảy, tháng 7 27, 2024

Phân tích và dự báo thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời toàn cầu từ nay đến năm 2032

 Năng lượng mặt trời từ lâu đã được thế giới công nhận về tiềm năng cung cấp nguồn năng lượng sạch dồi dào. Thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng lên hơn 197,1 tỷ USD vào năm 2032, phản ánh tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) mạnh mẽ trong thập kỷ tới, theo báo cáo của Global Market Insights.

Phân tích và dự báo thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời toàn cầu từ nay đến năm 2032
Sơ đồ dự báo thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời (Ảnh minh họa)

Chuyên gia hàng đầu trong ngành cho biết sự bùng nổ này được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ, hỗ trợ chính sách và nhu cầu ngày càng tăng về các giải pháp lưu trữ năng lượng đáng tin cậy và hiệu quả.

Năng lượng mặt trời từ lâu đã được công nhận về tiềm năng cung cấp nguồn năng lượng sạch và dồi dào. Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất là tính chất không liên tục - việc sản xuất năng lượng mặt trời phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời, sự thay đổi trong ngày và giữa các mùa. Sự gián đoạn này đòi hỏi các giải pháp lưu trữ hiệu quả để đảm bảo nguồn cung cấp điện ổn định và đáng tin cậy.

Khi thế giới tiếp tục ưu tiên các nguồn năng lượng tái tạo, việc lưu trữ năng lượng mặt trời nổi bật như một nhân tố chủ chốt trong bối cảnh năng lượng bền vững.

Các hệ thống lưu trữ cho phép lưu giữ năng lượng mặt trời dư thừa được tạo ra trong những giờ nắng gắt để sử dụng trong thời gian ánh nắng yếu hoặc nhu cầu cao, đã nổi lên như một thành phần quan trọng của cơ sở hạ tầng năng lượng hiện đại.

Báo cáo của Global Market Insights cho biết, các hệ thống này giúp làm dịu đi những biến động trong việc sản xuất điện mặt trời, đảm bảo cung cấp năng lượng ổn định và nâng cao độ tin cậy tổng thể của lưới điện.

Một số yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời

Đầu tiên, những tiến bộ về công nghệ, những đổi mới trong công nghệ pin, đặc biệt là pin lithium-ion, đã cải thiện đáng kể hiệu suất, công suất và tuổi thọ của hệ thống lưu trữ năng lượng mặt trời. Những tiến bộ trong công nghệ lưu trữ khác, chẳng hạn như pin dòng và pin thể rắn, cũng đang góp phần thúc đẩy thị trường tăng trưởng.

Kế đó là chính sách và ưu đãi của chính phủ. Nhiều chính phủ trên toàn thế giới đang thực hiện các chính sách và ưu đãi nhằm thúc đẩy năng lượng tái tạo và lưu trữ năng lượng. Các khoản trợ cấp, tín dụng thuế và khung pháp lý thuận lợi đang khuyến khích cả khu dân cư và thương mại áp dụng hệ thống lưu trữ năng lượng mặt trời.

Bên cạnh đó, chi phí giảm cũng góp phần vào quá trình này. Chi phí của các tấm pin mặt trời và hệ thống lưu trữ năng lượng đang giảm dần, khiến năng lượng mặt trời trở nên dễ tiếp cận hơn và giá cả phải chăng hơn. Xu hướng này dự kiến ​​sẽ tiếp tục, thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng thị trường.

Cuối cùng, nhu cầu về năng lượng tái tạo đang ngày càng gia tăng. Khi nhận thức toàn cầu về biến đổi khí hậu và tính bền vững của môi trường ngày càng tăng, nhu cầu về các nguồn năng lượng tái tạo cũng tăng theo. Năng lượng mặt trời, với nguồn cung dồi dào và chi phí giảm, đang trở thành lựa chọn ưa chuộng của nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp.

Thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời được phân chia dựa trên công nghệ, ứng dụng và khu vực

Theo công nghệ, thị trường bao gồm pin lithium-ion, pin axit chì, pin dòng chảy và các loại pin khác. Pin lithium-ion hiện đang thống trị thị trường do mật độ năng lượng cao, tuổi thọ dài và chi phí giảm.

Theo ứng dụng, thị trường được chia thành các ứng dụng ở quy mô dân cư, thương mại và quy mô tiện ích. Phân khúc dân cư đang có sự tăng trưởng đáng kể do nhận thức của người tiêu dùng ngày càng tăng và các ưu đãi của chính phủ đối với hệ thống năng lượng mặt trời gia đình.

Theo khu vực, châu Á - Thái Bình Dương được dự đoán sẽ chứng kiến ​​sự tăng trưởng đáng kể nhờ các dự án năng lượng mặt trời quy mô lớn và các chính sách thuận lợi của chính phủ ở các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ.

Một số xu hướng dự kiến ​​sẽ định hình quỹ đạo thị trường

Về triển vọng tương lai, các chuyên gia cho biết triển vọng thị trường lưu trữ năng lượng mặt trời sẽ đầy hứa hẹn.

Về tích hợp với lưới điện thông minh, việc tích hợp hệ thống lưu trữ năng lượng mặt trời với công nghệ lưới điện thông minh sẽ nâng cao tính ổn định và hiệu quả của lưới điện, cho phép quản lý cung và cầu năng lượng tốt hơn.

Về sự trỗi dậy của xe điện (EV), việc sử dụng xe điện ngày càng tăng đang tạo ra những cơ hội mới cho việc lưu trữ năng lượng mặt trời. Xe điện có thể đóng vai trò là đơn vị lưu trữ năng lượng di động, cung cấp thêm tính linh hoạt và công suất cho lưới điện.

Về hệ thống năng lượng phi tập trung, sự chuyển đổi sang các hệ thống năng lượng phi tập trung, nơi điện được tạo ra và tiêu thụ tại địa phương, đang thúc đẩy việc áp dụng các giải pháp lưu trữ năng lượng mặt trời dựa trên khu dân cư và cộng đồng.

Nh.Thạch

AFP

'Cuối 2025 mới có dự án mua bán điện trực tiếp, không qua EVN'

 Chuyên gia cho rằng mua bán điện trực tiếp khá phức tạp, cần chờ hướng dẫn và thời gian đồng bộ pháp lý nên "sớm nhất cuối 2025 mới có dự án vận hành theo cơ chế này".

Đầu tháng 7, Chính phủ ban hành Nghị định 80 về cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa đơn vị phát năng lượng tái tạo (mặt trời, gió...) với khách hàng sử dụng điện lớn. Điều kiện tham gia là khách hàng sử dụng điện lớn đấu nối cấp điện áp từ 22kV trở lên và tiêu thụ bình quân từ 200.000 kWh một tháng. Tương ứng, 7.700 khách hàng đủ điều kiện mua bán trực tiếp, theo số liệu của các công ty điện lực. Số này chiếm khoảng 40% tổng điện năng tiêu thụ cả nước.

Tại báo cáo cập nhật ngành năng lượng, nhóm phân tích Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng DPPA sẽ thúc đẩy các chủ đầu tư khởi động dự án điện tái tạo kể từ sau khi giá ưu đãi cố định FIT 2 hết hiệu lực vào cuối 2020. Theo đó, các chủ đầu tư dự án chuyển tiếp đang chờ cơ chế giá hay chuẩn bị triển khai được hưởng lợi, khi họ không phụ thuộc vào đàm phán với EVN.

Chẳng hạn, điện gió Tân Phú Đông 1 (công suất 100 MW) - dự án thuộc diện chuyển tiếp - giá đàm phán với EVN ở mức 908 đồng một kWh. Tới đây, nếu tham gia cơ chế DPPA, chủ đầu tư đàm phán bán điện cho đơn vị có nhu cầu (ngoài EVN) với giá có thể tốt hơn ngành điện mua từ họ, tùy thỏa thuận hai bên.

Hay với Công ty cổ phần Cơ điện lạnh, cơ chế DPPA là điều kiện để họ tiếp tục đầu tư loạt dự án điện gió sau 2025, gồm Trà Vinh 2 (80MW) và Trà Vinh V1-5 và V1 6 (48MW). Ở phía người mua trung gian, VDSC cho rằng cơ chế này mở ra cơ hội để các chủ đầu tư khu công nghiệp tham gia với tư cách đơn vị mua sỉ - bán lẻ điện.

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Marc E.Knapper cho rằng DPPA giúp các doanh nghiệp quốc tế, trong nước cắt giảm carbon và chuyển đổi năng lượng sạch. Mặt khác, cơ chế này cũng giúp thu hút thêm dòng vốn ngoại vào năng lượng tái tạo ở Việt Nam, theo ông Stuart Livesey, đại diện Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF).

Song, theo giới chuyên môn, nhiều thách thức cần gỡ để thực hiện DPPA. Bên mua và bán đàm phán giá trên cơ sở hợp đồng mua bán điện mẫu (PPA) của Bộ Công Thương. Phương thức mua có thể qua đường dây riêng (tức không qua EVN) hoặc lưới điện quốc gia. Tuy nhiên, hai trường hợp này đều đang thiếu các hướng dẫn chi tiết từ cơ quan quản lý.

Tại họp báo đầu tháng này, Thứ trưởng Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân thừa nhận "chắc chắn sẽ có lúng túng" khi thực hiện, gồm đàm phán "bán với giá nào" giữa các bên tham gia. Bởi, hợp đồng PPA mẫu của Bộ Công Thương mang tính định hướng, còn nội dung cụ thể là do hai bên thỏa thuận.

Nhóm phân tích của VDSC cho rằng cần nhiều thời gian để các dự án có thể triển khai theo cơ chế DPPA. Bởi, các cách thức, quy trình thực hiện chưa được nhà chức trách hướng dẫn chi tiết. Văn bản pháp lý thực hiện cơ chế này cũng cần sửa, ban hành đồng bộ, gồm Thông tư hướng dẫn DPPA, Nghị định về điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu, trong đó quy định về bán phần điện dư. Hay một số quy định về giá, chi phí các khâu vận hành, truyền tải, phân phối... tại Luật Điện lực cũng cần sửa đổi.

"Sớm nhất đến cuối năm 2025 mới có dự án vận hành theo cơ chế này", chuyên gia phân tích tại VDSC dự báo.

Nhà máy điện mặt trời đã đưa vào hoạt động ở TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Ảnh: Việt Quốc

Nhà máy điện mặt trời đã đưa vào hoạt động ở TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Ảnh: Việt Quốc

Với các dự án mua bán qua đường dây riêng, các bên tự thỏa thuận công suất, sản lượng và giá nhưng họ phải bỏ chi phí đầu tư đường dây. Nhóm phân tích của Chứng khoán SSI cho rằng người mua và bán có thể gặp khó khăn trong đàm phán hợp đồng do thiếu hướng dẫn.

Cụ thể hơn, chuyên gia từ VDSC chỉ ra các chủ đầu tư sẽ gặp vướng khi bổ sung lưới điện vào quy hoạch tỉnh, vùng. Ông Phạm Đăng An, Phó tổng giám đốc Vũ Phong Energy Group - một đơn vị phát triển các dự án điện mặt trời - nhìn nhận quy trình bổ sung này sẽ "phức tạp, tốn thời gian và nguồn lực". Bởi, doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn, bảo trì và kiểm tra định kỳ hệ thống truyền tải điện.

"Những thách thức này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư do chi phí tăng cao", ông nói. Tuy nhiên, nếu thực hiện đúng cách và tuân thủ các quy định, doanh nghiệp có thể tận dụng lợi thế của việc bán điện trực tiếp, hiệu quả đầu tư về dài hạn.

Ở góc nhìn khác, đại diện một doanh nghiệp tại Bình Thuận lo ngại các khách hàng lớn cần mua điện sạch chủ yếu ở phía Bắc và Nam, nhưng nguồn cung năng lượng tái tạo quy mô lớn nằm rải rác ở miền Trung. Điều này gây khó khăn cho việc bán điện trực tiếp do chi phí đầu tư đường dây riêng quá lớn.

Trường hợp mua bán điện trực tiếp qua lưới điện quốc gia (tức vẫn qua EVN) cũng không dễ. Theo Phó tổng giám đốc Vũ Phong Energy Group, nhà chức trách cần hướng dẫn phương pháp tính giá bán, chi phí trả cho khâu vận hành lưới điện, cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật, điều kiện khi hợp tác, thực hiện dự án.

Thực tế, ngoài chi phí của nhà máy phát điện, phí truyền tải và phân phối trả cho các công ty điện lực là những thành phần để tính giá bán giữa các bên. Với mua bán trực tiếp qua lưới, bên phát điện sẽ đầu tư nhà máy năng lượng tái tạo nhưng sử dụng hệ thống truyền tải, phân phối hiện hữu của ngành điện.

Tuy nhiên, Việt Nam đang áp dụng giá điện một thành phần, tức là các chi phí này được tính gộp trong giá bán. Thực tế, chi phí khâu truyền tải hiện quá thấp, tới cuối 2023 là hơn 79 đồng một kWh (chưa gồm thuế VAT). Mức này được tính trên mỗi kWh vận chuyển, chưa tính đúng, đủ chi phí và khoảng cách xa hay gần. Trong khi, chi phí đầu tư của ngành điện (trạm biến áp, đường dây) có thể khác nhau giữa các khách hàng, tùy nhu cầu sử dụng, vị trí.

Để khắc phục tồn tại này, Chính phủ yêu cầu Bộ Công Thương nghiên cứu, sớm áp dụng cơ chế tính giá hai thành phần. Với cơ chế này, ngành điện sẽ tách giá và phí truyền tải ra khỏi giá thành điện năng. Việc này tạo công bằng giữa bên mua - bán trong đó có EVN, nhà sản xuất và đơn vị sử dụng điện, theo Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tại cuộc họp đầu tháng 7.

Ngoài ra, thách thức nữa khi thực hiện DPPA, theo VDSC, là tối ưu hiệu quả đàm phán sản lượng và giá theo hợp đồng mua bán điện. Các công ty phát điện phải "chốt" giá cố định cả năm, hay điều chỉnh theo thời điểm trong ngày hoặc mùa. Việc tìm ra điểm cân bằng cung - cầu cũng là vấn đề, bởi giá cao có lợi cho bên bán, nhưng lại khó thương lượng với khách hàng. Cùng với đó, phần điện dư không phát hết, các chủ đầu tư phải tự chào giá trên thị trường bán buôn điện cạnh tranh (chu trình giao dịch 48 phiên một ngày, mỗi phiên 30 phút). Tuy nhiên, tới giờ chưa rõ cơ chế để nhà máy điện tái tạo chào giá trên thị trường này.

Chưa kể, DPPA áp dụng cho nguồn năng lượng tái tạo, trong đó điện mặt trời là loại nguồn điện thiếu tính ổn định, phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết. Tức là nguồn điện này có thể sụt giảm công suất đột ngột khi gặp mây, mưa. Dù mua bán qua đường dây nhánh, doanh nghiệp vẫn phải đấu nối vào hệ thống điện quốc gia. Như vậy, lưới điện quốc gia luôn phải "chờ sẵn" để kịp thời cung ứng. Ước tính của giới chuyên môn, 1 MW điện mặt trời mái nhà cần 4 MW từ các nguồn điện nền (than, khí, thủy điện) dự phòng để vận hành ổn định.

Phương án sử dụng hệ thống pin lưu trữ (BESS) được tính tới như một giải pháp hỗ trợ ổn định lưới điện, giảm thất thoát điện năng trong bối cảnh năng lượng tái tạo không ổn định. Theo ông Phạm Đăng An, việc tích hợp hệ thống lưu trữ cần được xem như một điều kiện khi triển khai các dự án. "Việc này góp phần giảm rủi ro gián đoạn cung cấp điện, phát huy tiềm năng nguồn năng lượng tái tạo", ông An nói.

Song tiền đầu tư hệ thống BESS vẫn cao, nên phương án này chưa phải tối ưu. Bộ phận nghiên cứu của Công ty chứng khoán SSI dẫn đánh giá của EVN cho biết giá bán lẻ điện khoảng 2.006,79 đồng một kWh (tương đương 7,88 cent một kWh) thấp hơn chi phí sản xuất điện khí LNG hay từ công nghệ BESS. Chuyên gia từ SSI kỳ vọng trong trung, dài hạn, mô hình giá điện hai thành phần sẽ giúp giải quyết tình trạng này. Ngoài ra, nhóm phân tích cũng lưu ý việc triển khai DPPA phải đi kèm chính sách điều độ hợp lý hơn để đảm bảo khả năng chịu tải của lưới điện.

Ông Hà Đăng Sơn, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu năng lượng và tăng trưởng xanh, cho rằng chính sách mua bán điện trực tiếp lần đầu được đưa ra nên cần có giai đoạn thử nghiệm. Theo ông, khó có cơ chế nào hoàn hảo từ khi ban hành, bởi "mỗi doanh nghiệp yêu cầu một kiểu". Nhà chức trách có thể cũng chưa tính toán được hết hạ tầng, cơ chế, quy mô thị trường thực tế.

"Các cơ chế vẫn phải thử, sau đó điều chỉnh dần dần", 

tHEOvnEXPRESS

Trung Quốc xây nhà máy điện hạt nhân muối nóng chảy đầu tiên trên thế giới

  

Lò phản ứng muối nóng chảy không cần nước để làm mát, sử dụng thorium thay vì uranium và không gây nguy hiểm cho môi trường xung quanh.

Theo SCMP, Trung Quốc có kế hoạch bắt đầu xây dựng nhà máy điện lò phản ứng muối nóng chảy thorium đầu tiên trên thế giới vào năm tới tại sa mạc Gobi, tây bắc nước này. Lò phản ứng muối nóng chảy không cần nước để làm mát vì nó sử dụng muối lỏng và carbon dioxide để truyền nhiệt và tạo ra điện.

Việc sử dụng thorium làm nhiên liệu chính không tạo ra mối lo ngại về nguy cơ thiếu hụt uranium - loại nhiên liệu thường được sử dụng trong lò phản ứng hạt nhân, vì thorium dồi dào hơn uranium.

Trung Quốc có nguồn dự trữ thorium dồi dào. (Ảnh: SCMP)

Trung Quốc có nguồn dự trữ thorium dồi dào. (Ảnh: SCMP)

Theo ước tính của một số nhà khoa học, Trung Quốc có đủ trữ lượng thorium để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong 20.000 năm.

Lò phản ứng này dự kiến ​​sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động vào năm 2029, tạo ra nhiệt với công suất tối đa 60 megawatt.

Một phần năng lượng nhiệt sẽ được sử dụng để vận hành một đơn vị phát điện 10MW, và phần còn lại sẽ sản xuất hydro bằng cách phân tách các phân tử nước ở nhiệt độ cao.

Nhà máy điện lò phản ứng muối nóng chảy dạng mô-đun nhỏ sử dụng thorium này sẽ được Viện Vật lý ứng dụng Thượng Hải, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc xây dựng và vận hành.

Viện Nghiên cứu và Thiết kế Kỹ thuật Hạt nhân Thượng Hải nhận định, dự án này sẽ "thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghệ liên quan đến sản xuất vật liệu và thiết bị cao cấp", đặc biệt sẽ giúp Trung Quốc đạt được "sự độc lập về năng lượng".

Hiện nay, lò phản ứng thorium duy nhất đang hoạt động trên Trái đất cũng nằm ở sa mạc Gobi, cách thành phố Vũ Uy, tỉnh Cam Túc khoảng 120 km về phía tây bắc.

Lò phản ứng thử nghiệm này chỉ có thể sản xuất 2MW điện năng và không tạo ra điện. Tuy nhiên, nó kết hợp một số công nghệ mang tính cách mạng, bao gồm siêu hợp kim có thể chịu được nhiệt độ cao, bức xạ và ăn mòn hóa học.

Nguyên lý hoạt động

Địa điểm xây dựng lò phản ứng phát điện mới sẽ nằm ở phía tây của lò phản ứng nhỏ thử nghiệm, chiếm diện tích nhỏ hơn một sân bóng đá.

Muối nóng chảy mang nhiên liệu thorium đi vào lõi lò phản ứng qua các đường ống để trải qua phản ứng dây chuyền. Sau khi nhiệt độ tăng lên, nó chảy ra phía bên kia và truyền nhiệt cho muối nóng chảy không có thorium đang lưu thông trong một vòng riêng biệt.

Muối nóng chảy nhưng không phóng xạ, sau đó chảy vào nhà máy điện bên cạnh lò phản ứng để dẫn động tua-bin khí chạy bằng carbon dioxide nhằm phát điện.

Dự án mới này cũng bao gồm nhiều cơ sở khác, chẳng hạn như một trung tâm nghiên cứu và nhà máy xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng.

Theo báo cáo, hơn 80% vật liệu, nhiên liệu đã qua sử dụng sẽ được tái chế. Chất thải phóng xạ còn lại sẽ được đông đặc thành thủy tinh và vận chuyển đến bãi xử lý chất thải hạt nhân quốc gia sâu dưới lòng đất ở sa mạc Gobi.

Hiện nay, hầu hết các lò phản ứng nhiên liệu uranium sử dụng nước để làm mát đều có nguy cơ nổ nếu máy bơm bị trục trặc. Nhưng trong lò phản ứng thorium, muối nóng chảy có thể rơi vào thùng chứa bên dưới lò phản ứng, không gây nguy hiểm cho môi trường xung quanh.

Một nhà máy điện hạt nhân ở Trung Quốc. (Ảnh: Baidu)

Một nhà máy điện hạt nhân ở Trung Quốc. (Ảnh: Baidu)

Theo báo cáo, lò phản ứng mới của Trung Quốc sẽ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu, chủ yếu phục vụ các nhà khoa học. Tuy nhiên, nước này cũng có kế hoạch xây dựng một cơ sở điện gió, một nhà máy điện mặt trời, một nhà máy điện lưu trữ năng lượng từ muối nóng chảy, một nhà máy điện nhiệt và một cơ sở sản xuất hóa chất, cùng lúc với nhà máy điện thorium.

Các loại năng lượng khác nhau sẽ được tích hợp vào lưới điện thông minh để cung cấp điện giá rẻ, ít carbon, ổn định và đủ dùng cho sản xuất công nghiệp.

Sau đó, bắt đầu từ năm 2030, Trung Quốc sẽ bắt đầu xây dựng các lò phản ứng mô-đun thương mại sử dụng thorium với công suất phát điện từ 100MW trở lên.

Các nhà đóng tàu Trung Quốc gần đây cũng đã công bố thiết kế đầu tiên trên thế giới về một tàu container khổng lồ chạy bằng lò phản ứng muối nóng chảy này. Một số chuyên gia vận tải tin rằng nó có thể bắt đầu một cuộc cách mạng mới trong hậu cần con người.

Lò phản ứng muối nóng chảy đầu tiên trên thế giới sử dụng thorium được xây dựng và vận hành tại Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge ở Mỹ vào những năm 1960 trong bốn năm.

Do những hạn chế về mặt kỹ thuật vào thời điểm đó, lò phản ứng gặp phải nhiều vấn đề, khiến một nửa thời gian hoạt động phải dành cho việc bảo trì.

Lò phản ứng đã đóng cửa vĩnh viễn vào tháng 12/1969.

HOA VŨ(Nguồn: SCMP)