e

Thứ Năm, tháng 11 30, 2023

Máy phát điện thủy điện di động tự làm gây chấn động, có thể tạo ra điện miễn phí mọi lúc mọi nơi

 

Máy phát điện thủy điện di động tự làm gây chấn động, có thể tạo ra điện miễn phí mọi lúc mọi nơi

Máy phát điện di động tự làm chính là bước đột phá công nghệ đáng chú ý này đã gây chấn động lớn trên toàn thế giới với thiết kế tinh tế và hiệu suất tuyệt vời.

Trong cuộc sống nhịp độ nhanh hiện nay, nhu cầu sử dụng điện của chúng ta ngày càng tăng cao, việc bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng đã trở thành nhu cầu cấp thiết của xã hội đương đại. Tuy nhiên, bạn đã bao giờ tưởng tượng có một thiết bị thần kỳ có thể tạo ra điện miễn phí mọi lúc, mọi nơi chưa? Dưới đây là một phát minh tuyệt vời - máy phát điện thủy điện di động tự chế! Bước đột phá công nghệ đáng chú ý này đã gây chấn động lớn trên toàn thế giới với thiết kế tinh tế và hiệu suất tuyệt vời.

 

Nguyên lý và cấu tạo của máy phát điện thủy điện di động

Máy phát điện thủy điện di động là thiết bị sử dụng năng lượng thủy lực để chuyển hóa thành năng lượng điện. Nó bao gồm một tuabin, một máy phát điện và một bàn xoay. Tua bin thủy lực có nhiệm vụ tiếp nhận động năng của nước, chuyển hóa thành cơ năng, sau đó truyền đến máy phát điện thông qua thiết bị truyền động, máy phát điện chuyển đổi cơ năng thành năng lượng điện.

Trong các máy phát điện thủy điện di động, tua bin nước đóng vai trò quan trọng. Tua bin nước thường bao gồm cánh quạt, trục quay và vòng bi. Khi nước chảy vào các cánh tuabin, các cánh tuabin bắt đầu quay do tác động và động năng của dòng nước. Lực quay này được truyền tới trục quay thông qua thanh nối khiến trục quay cũng bắt đầu quay. Chuyển động quay của trục truyền năng lượng cơ học đến máy phát điện, khiến máy phát điện bắt đầu hoạt động. Chuyển động tương đối giữa cuộn dây và nam châm bên trong máy phát điện tạo ra dòng điện cảm ứng, dòng điện này cuối cùng được chuyển thành năng lượng điện đầu ra.

Về mặt cấu tạo, máy phát thủy điện di động thường bao gồm tua-bin, máy phát điện và bàn xoay. Tua bin và máy phát điện được kết nối thông qua một thiết bị truyền động, có thể là bộ truyền bánh răng, bộ truyền đai hoặc bộ truyền xích. Bàn xoay có vai trò đỡ và quay tuabin để dòng nước có thể đi vào tuabin một cách êm ái và được điều chỉnh hoặc quay khi cần thiết.

 

Máy phát điện thủy điện di động có nhiều ưu điểm. Đầu tiên, nó sử dụng thủy điện tái tạo để tạo ra điện, có thể tận dụng tối đa tài nguyên thiên nhiên và giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng không tái tạo như dầu mỏ. Thứ hai, nó linh hoạt và dễ thích nghi, có thể lắp đặt và di chuyển ở các nguồn nước khác nhau khi cần thiết. Ngoài ra, máy phát điện thủy điện di động cũng ít gây ô nhiễm môi trường và độ ồn thấp hơn, có thể bảo vệ môi trường tốt hơn và cung cấp năng lượng sạch.

Tuy nhiên, có một số thách thức và hạn chế liên quan đến máy phát điện thủy điện di động. Trước hết, hiệu quả của nó bị ảnh hưởng bởi quy mô và tốc độ của dòng nước, nếu nguồn nước không đủ hoặc không ổn định thì hiệu quả phát điện sẽ giảm đi rất nhiều. Ngoài ra, việc thiết kế, chế tạo tua-bin, máy phát điện đòi hỏi công nghệ chuyên nghiệp và thiết bị tiên tiến nên việc thi công và bảo trì càng khó khăn hơn. Ngoài ra, chi phí đầu tư cho các máy phát điện thủy điện di động cao và có thể không dễ thực hiện đối với một số nước đang phát triển.

Lợi ích năng lượng miễn phí của máy phát điện thủy điện di động

 

Ưu điểm của năng lượng miễn phí Năng lượng tái tạo: Nguồn năng lượng được khai thác bởi các máy phát điện thủy điện di động là động năng của dòng nước và nước là một trong những nguồn năng lượng tái tạo dồi dào nhất trên Trái đất. So với các nguồn năng lượng truyền thống, thủy điện không thải ra các khí độc hại như carbon dioxide và thân thiện với môi trường hơn. Tiếp cận miễn phí: So với năng lượng gió và năng lượng mặt trời, các máy phát điện thủy điện di động có lợi thế là tự do tiếp cận năng lượng. Dòng nước là hiện tượng phổ biến trong tự nhiên, chúng ta có thể sử dụng dòng nước tự nhiên để chạy máy phát điện mà không cần đầu tư thêm nhiên liệu.

Ổn định và đáng tin cậy: So với năng lượng gió và năng lượng mặt trời, máy phát điện thủy điện di động có lợi thế hơn về độ tin cậy. Mặc dù nguồn cung cấp ánh sáng mặt trời và gió bị ảnh hưởng bởi thời tiết nhưng nguồn cung cấp dòng nước tương đối ổn định hơn, đồng nghĩa với việc các máy phát điện thủy điện di động có thể sản xuất năng lượng tái tạo một cách liên tục và ổn định. Tính linh hoạt: Máy phát điện thủy điện di động có trọng lượng nhẹ và nhỏ nên dễ dàng mang theo và di chuyển. Nó có thể thích ứng với các môi trường nước khác nhau như sông, suối, nước tuần hoàn công nghiệp, v.v. Điều này cho phép các máy phát điện thủy điện di động được sử dụng ở các vị trí địa lý và các tình huống khác nhau để đáp ứng nhu cầu năng lượng.

 

Chi phí bảo trì thấp: Chi phí bảo trì máy phát thủy điện di động tương đối thấp. Do nguyên lý và cấu trúc làm việc đơn giản, nhân viên bảo trì có thể dễ dàng thực hiện kiểm tra và sửa chữa. Ngoài ra, máy phát điện thủy điện di động không cần lượng năng lượng lớn để duy trì hoạt động hàng ngày, giúp giảm chi phí vận hành hơn nữa.

Tác động tích cực của máy phát điện thủy điện di động tới việc bảo vệ môi trường

Không thải khí carbon, thân thiện với môi trường: Máy phát điện thủy điện di động sử dụng dòng nước để chuyển hóa nước thành điện năng mà không tạo ra bất kỳ khí độc hại hoặc chất thải rắn nào. So với các nguồn năng lượng truyền thống như đốt than và dầu, thủy điện không những không phát thải carbon mà còn không có lưu huỳnh, nitơ, oxit và các chất ô nhiễm khác và sẽ không có bất kỳ tác động tiêu cực nào đến môi trường khí quyển.

Giảm phát thải khí nhà kính, ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu: Do sử dụng năng lượng thủy điện tái tạo, máy phát điện thủy điện di động giúp giảm phát thải khí nhà kính. Các khí nhà kính, chẳng hạn như carbon dioxide, metan, v.v., là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu. Thủy điện có hiệu suất sử dụng năng lượng cao và lượng phát thải khí nhà kính thấp. Bằng cách thúc đẩy việc sử dụng các máy phát điện thủy điện di động, thủy điện có thể làm chậm biến đổi khí hậu và hạn chế hiện tượng nóng lên toàn cầu một cách hiệu quả.

 

Bảo vệ môi trường sinh thái và thúc đẩy phát triển bền vững: Máy phát điện thủy điện di động có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Việc sản xuất thủy điện truyền thống thường đòi hỏi phải xây dựng các con đập, điều này thường hạn chế dòng nước chảy tự nhiên trong một khu vực và cản trở chu trình sinh thái tự nhiên của dòng sông. Ngược lại, các máy phát thủy điện di động có thể di chuyển mọi lúc, mọi nơi mà không gây cản trở hay thiệt hại cho sông ngòi, giảm ô nhiễm nguồn nước và thiệt hại sinh thái, giúp bảo vệ tài nguyên nước và đa dạng sinh học.

Thúc đẩy phát triển và thúc đẩy năng lượng tái tạo: Với tư cách là đại diện cho năng lượng tái tạo, các máy phát điện thủy điện di động đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển và thúc đẩy năng lượng tái tạo thông qua hiệu quả cao và bảo vệ môi trường. Thủy điện có thể được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, mang lại giải pháp hiệu quả để đa dạng hóa năng lượng, giảm sự phụ thuộc vào năng lượng không tái tạo và thúc đẩy tối ưu hóa và phát triển bền vững cơ cấu năng lượng.

TheoTechz.vn

Thứ Tư, tháng 11 29, 2023

Việt Nam với nguồn tài nguyên năng lượng băng cháy

  Trong buổi trao đổi với GS.TSKH Mai Thanh Tân - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ Địa chất về chủ đề các nguồn tài nguyên năng lượng ở Việt Nam, ông cho rằng ngoài dầu khí thì băng cháy (hydrat khí) là một nguồn năng lượng mới, có tiềm năng lớn và đang được khảo sát bằng các phương pháp khác nhau tạo cơ sở để tiến tới các bước thăm dò, khai thác trong tương lai.

Tiềm năng dầu mỏ và băng cháy ở Việt Nam

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, xã hội càng văn minh thì nhu cầu về năng lượng càng tăng lên, thúc đẩy việc tìm ra các nguồn năng lượng mới và việc xác định chiến lược an ninh năng lượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng với mỗi nước trên thế giới. Thế kỷ 19 tìm ra than đá đã mở đầu cho cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất là cơ giới hóa. Đến thế kỷ 20 phát hiện dầu khí là loại năng lượng có tầm vĩ mô toàn cầu.

Hoạt động khai thác Dầu khí
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam có đủ tiềm lực và công nghệ để tiến hành thăm dò, khai thác băng cháy.

Hiện nay, việc phát hiện hydrat khí có ý nghĩa rất quan trọng mà theo dự đoán tương lai có thể chiếm trên 50% các nguồn năng lượng. Trên thế giới đang xu hướng tiến tới tăng dần nguồn năng lượng sạch, nguồn năng lượng tái tạo (mặt trời, gió, sóng biển…), tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên trong tương lai gần, nguồn năng lượng được hình thành từ vật chất hữu cơ, trải qua quá trình tích tụ lâu dài trong lòng đất như dầu khí và băng cháy vẫn đóng vai trò chủ đạo.

Dầu khí là nguồn năng lượng hóa thạch được hình thành từ vật chất hữu cơ chôn vùi trong đá trầm tích từ nhiều triệu năm, đây là nguồn năng lượng rất quan trọng của nhân loại. Việt Nam có vùng biển rộng lớn hàng triệu km² với các bể trầm tích có tiềm năng dầu khí phong phú. Nguồn vật liệu trầm tích từ các con sông đổ ra biển, với bờ biển dài 3260km có đến khoảng 114 cửa sông. Các con sông lớn như sông Mê Kông với chiều dài 4.350 km bắt nguồn từ Tibet có lưu vực 795.000 km², lượng phù sa 160 triệu tấn/năm; sông Hồng cũng bắt nguồn từ Tibet nhưng 17 triệu năm trước (Miocen trung) đã bị cướp dòng nên nay có nguồn từ Vân Nam, dài 1.149km, lượng phù sa 100 triệu tấn/năm.

Trong những năm qua lĩnh vực dầu khí đã trở thành một ngành công nghiệp quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo tính toán sơ bộ, trữ lượng dầu khí ở Việt Nam có khoảng 4-4,5 tỉ tấn quy dầu (đã phát hiện là 1,2 tỉ tấn), 600 tỉ m³ khí, đứng thứ 28 trong số 52 nước có tài nguyên dầu khí trên thế giới. Khai thác dầu khí hàng năm đóng góp quan trọng vào ngân sách của nước ta.

Hiện nay ngành Dầu khí đang đứng trước những thử thách mới đó là cần triển khai không chỉ các vùng truyền thống trên các khu vực thềm lục địa biển nông mà cả những vùng có điều kiện khó khăn hơn như các vùng rìa, vùng biển nước sâu xa bờ, cần tìm kiếm cả trong các đối tượng phi truyền thống như bẫy phi cấu tạo, các đới nứt nẻ trong đá móng, đá carbonat, các quạt trầm tích vùng nước sâu…

Mặc dù dầu khí là nguồn năng lượng lớn song qua quá trình khai thác nhiều năm dần bị suy giảm, vì vậy việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên năng lượng mới bổ sung là rất cần thiết.

Hydrat khí/GH (Băng cháy) là hỗn hợp khí tự nhiên (chủ yếu là methan) kết hợp với nước chuyển thành thể rắn trong điều kiện áp suất cao, nhiệt độ thấp. Đây được coi là dạng năng lượng tiềm năng có thể được khai thác trong nhiều thập niên tới. Các nghiên cứu đạt được cho thấy chúng tồn tại ở các vùng biển sâu có đủ điều kiện nhiệt độ thấp và áp suất cao. Nguồn gốc băng cháy từ khí sinh học hình thành bởi vật chất hữu cơ phân hủy trong trầm tích hoặc do khí từ tích tụ dầu khí ở dưới sâu theo các đứt gãy lên. Băng cháy có tiềm năng rất lớn trên thế giới, ước tính tiềm năng toàn cầu khoảng 2.1014-7.6.1018 m³, chiếm 53% so với các nguồn năng lượng khác và có thể được khai thác trong nhiều thập niên tới. Theo tính toán, 1m³ băng cháy có thể giải phóng 164m³ khí. Với tầm quan trọng của băng cháy, một số quốc gia đã triển khai các chương trình khảo sát tổng thể và bước đầu nghiên cứu thử nghiệm công nghệ khai thác.

Triển vọng hydrat khí (băng cháy) ở Việt Nam

Băng cháy là một dạng tài nguyên năng lượng mới không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Khu vực Biển Đông nằm trong vành đai Tây Thái Bình Dương là nơi hội tụ các điều kiện hình thành và tồn tại băng cháy (độ sâu đáy biển, điều kiện cấu kiến tạo, trầm tích, nguồn khí tự nhiên, điều kiện nhiệt độ và áp suất đáy biển…). Theo các kết quả nghiên cứu, ở vùng biển nước sâu của Việt Nam (>300m đến 3.500m) nhiệt độ đáy biển thay đổi trong khoảng 7℃-10℃ đến 25℃-5℃, áp suất khoảng 30-35 MPa… được đánh giá là đủ điều kiện hình thành và tồn tại băng cháy.

Việt Nam với nguồn tài nguyên năng lượng băng cháy
Băng cháy dưới đáy biển vùng nước sâu là nguồn năng lượng sạch, có trữ lượng lớn.

Ở Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu, khảo sát, tìm kiếm băng cháy. Từ năm 2007, “Chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản về tiềm năng hydrat khí ở các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam” (Chương trình GH 796) đã được xây dựng và triển khai thực hiện. Năm 2014, Việt Nam phối hợp với Công ty DMIGE (Nga) khảo sát ngoài khơi bể Phú Khánh, Tư Chính Vũng Mây và từ năm 2015 đến nay tiếp tục khảo sát tỉ mỉ và bước đầu xác định các vùng có triển vọng về băng cháy ở vùng biển Đông Nam Việt Nam. Kết quả nghiên cứu gần đây cho phép xác định các dấu hiệu liên quan đến cơ chế hình thành, điều kiện tồn tại băng cháy trên cơ sở các đặc điểm địa chất, địa vật lý và địa hóa.

Các đặc điểm địa chất gồm: áp suất, nhiệt độ, gradien địa nhiệt, địa mạo đáy biển, địa tầng, cấu trúc địa chất, trầm tích tầng nông). Các đặc điểm địa vật lý gồm: biểu hiện cột khí (Gas chimney), đới ổn định hydrat khí (Gas Hydrat Stable Zone/ GHSZ), mặt phản xạ mô phỏng đáy thể hiện ranh giới giữa đới băng cháy và vùng khí tự do (Bottom Simulating Reflection/ BSR) và các đặc điểm địa hóa gồm: dị thường khí CH4, dị thường âm của ion Cl- trong nước lỗ hổng, bề mặt SMI/SMT.

Trên cơ sở minh giải tài liệu thăm dò địa chất và địa vật lý (chủ yếu là địa chấn phân giải cao), các kết quả nghiên cứu đã bước đầu dự kiến được các vùng có triển vọng tồn tại băng cháy ở khu vực biển miền Trung và Đông Nam Việt Nam, phân vùng băng cháy theo mức độ có triển vọng cao, trung bình và thấp. Cho đến nay chưa có giếng khoan sâu kiểm tra trực tiếp mà mới thăm dò gián tiếp, tuy nhiên qua một số tính toán sơ bộ ước tính trữ lượng băng cháy của Việt Nam vào khoảng 9 tỉ m³ (1500 tỉ m³ khí).

Khảo sát và nghiên cứu băng cháy ở những vùng biển sâu, biển xa là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương pháp có hiệu quả để khảo sát, kiểm chứng và đánh giá sự tồn tại của chúng. Các kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh các khảo sát tỉ mỉ hơn trong thời gian tới.

Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Mỹ (EIA), vùng quần đảo Trường Sa của Việt Nam có trữ lượng băng cháy tương đương khoảng 5,4 tỉ thùng dầu. Bên cạnh đó, thềm lục địa Việt Nam cũng được đánh giá là có trữ lượng băng cháy khá lớn so với 19,4 tỉ m³ trong khu vực Bắc Biển Đông. Nếu được khai thác sớm, băng cháy có thể đem về cho đất nước hàng trăm tỉ USD, bảo đảm an ninh năng lượng trong thời gian rất dài.

TheoPetrotimes - Thành Công

Các bước cải cách thị trường điện Việt Nam

 Những khó khăn, thử thách của tình trạng thiếu điện trong năm 2023 tuy mang lại nhiều hệ lụy tiêu cực, cũng là dịp để ngành điện, các cơ quan hữu trách đánh giá, nhìn nhận lại ưu, nhược điểm để khắc phục và tiến lên phía trước.

Theo quan sát của tôi, hiện nay ở Việt Nam đã có sự đồng thuận rằng thị trường năng lượng, thị trường điện là hướng đi đúng đắn, cần tiến hành khẩn trương để làm tiền đề phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước. 

Tuy nhiên cho đến nay, cải cách thị trường điện còn nhiều bất cập. Đơn cử như chúng ta vẫn chưa có thị trường bán buôn điện đúng nghĩa, mới chỉ là thị trường cạnh tranh về phát điện vì các đơn vị mua buôn điện để cung cấp dịch vụ bán lẻ điện vẫn thuộc về Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nghĩa là còn độc quyền trong mua buôn và bán lẻ điện.


Để có thể thu hút vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu phát triển rất lớn như quy hoạch điện VIII đã dự báo (tổng dự toán đầu tư nguồn và lưới điện giai đoạn 2021-2030 khoảng 135 tỷ USD), Việt Nam cần các cơ chế thị trường điện phù hợp, xứng tầm. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế và đối chiếu với hiện trạng thị trường điện Việt Nam, tôi cho rằng các điều kiện cần chính yếu để Việt Nam có thể tiến tới một thị trường bán lẻ điện cạnh tranh - cấp độ cuối của cải cách thị trường điện - bao gồm:

Đầu tiên, cơ sở pháp lý đủ mạnh. Luật Điện lực cần được sửa đổi theo hướng thông thoáng và trao thẩm quyền nhiều hơn cho Chính phủ, các cơ quan quản trị ngành năng lượng, điện lực để điều chỉnh, cập nhật các quy định điện lực kịp thời với thay đổi nhanh chóng của thực tế;

Thứ hai, cơ chế quản trị thị trường điện phù hợp. Trung tâm Điều độ quốc gia (A0) đã có quyết định tách ra khỏi EVN, chuyển về Bộ Công Thương để thực hiện chức năng vận hành thị trường điện và hệ thống điện độc lập, phi lợi nhuận.

Các chức năng quản trị khác như ra chính sách, thiết kế, lập và quản lý quy định thị trường điện, điều tiết thị trường điện cũng cần hoạt động độc lập, có đủ thẩm quyền và nguồn lực để xây dựng và vận hành các cơ chế thị trường điện;

Thứ ba, thị trường bán buôn điện cần hoàn chỉnh như thiết kế đã phê duyệt năm 2015, đồng bộ và liên thông với thị trường hoặc cơ chế quản lý của các phân ngành khác của ngành năng lượng như than, khí.

Đồng thời, Việt Nam cần xem xét thiết kế lại thị trường điện có tính đến mức độ tham gia rất lớn của năng lượng tái tạo trong tương lai. Trong đó, nên xem xét và lựa chọn một cơ chế thị trường công suất phù hợp để có thể thay thế cơ chế Quy hoạch điện tập trung hiện hành, nhằm đảm bảo độ tin cậy dài hạn, đủ công suất và năng lượng cho nhiều năm tới trong tương lai.

Về bản chất, thị trường công suất giống các Quy hoạch điện trong việc xác định thiếu hụt công suất nguồn lưới cho tương lai, nhưng sẽ được tiến hành với chu kỳ ngắn hơn như hàng năm, hoặc mỗi hai năm thay vì 5 năm như các Quy hoạch điện hiện nay. Với chu kỳ ngắn hơn, thị trường công suất giúp hệ thống điện sớm có đủ công suất linh hoạt cần thiết từ các nguồn có thể điều khiển được như thủy điện, nhà máy điện khí, thiết bị lưu trữ năng lượng, đáp ứng nhanh phía nhu cầu nhằm tích hợp và bình ổn năng lượng tái tạo vào hệ thống điện;

Thứ tư, thực hiện các hạng mục tái cơ cấu đã đề ra theo lộ trình được phê duyệt, trong đó nhanh chóng tách chức năng dịch vụ lưới điện phân phối và dịch vụ bán lẻ; cho phép các nhà đầu tư nhà nước và tư nhân mới tham gia cạnh tranh trong khâu cung cấp dịch vụ bán lẻ điện; đảm bảo tính mở, công bằng trong truy cập các dịch vụ lưới truyền tải và phân phối cho tất cả các công ty bán lẻ điện và khách hàng sử dụng điện lớn có đủ năng lực muốn tham gia thị trường điện;

Thứ năm, phát triển đội ngũ lãnh đạo, nhân lực am hiểu thị trường điện, chuyển đổi năng lượng bền vững để ra chính sách, thiết kế, xây dựng và tham gia vận hành thương mại các thị trường điện phù hợp và hiệu quả cho Việt Nam.

Với các hạng mục nêu trên, cải cách ngành điện để tiến tới thị trường bán lẻ điện là một công cuộc chuyển đổi toàn diện, phức tạp, quy mô lớn, có tác động rất lớn đến nhiều tổ chức, con người trong ngành điện cũng như đến toàn bộ nền kinh tế - xã hội Việt Nam.

Hiện nay khi bàn các vấn đề ưu tiên trong ngành điện, chúng ta thường nói tới dự án phát triển nguồn và lưới điện, còn các đề án/dự án ưu tiên về xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật và tăng cường năng lực của ngành điện chỉ được nêu một cách chung chung, chưa cụ thể.

Tôi cho rằng cải cách thị trường điện cần nhanh chóng được xem xét định danh, phân loại cụ thể, riêng biệt và rõ ràng là dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm của ngành năng lượng, cần ưu tiên hàng đầu.

Thật vậy, cải cách thị trường điện đáp ứng nhiều tiêu chí và luận chứng của dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện theo quy định hiện hành, đặc biệt là các tiêu chí "đảm bảo an ninh cung cấp điện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội", "đảm bảo tính đồng bộ giữa quy hoạch phát triển điện lực và các quy hoạch năng lượng khác", "đảm bảo an toàn, an ninh hệ thống điện quốc gia giữa nguồn điện chạy nền, nguồn điện năng lượng tái tạo và phụ tải (thủy điện tích năng, pin lưu trữ năng lượng...)", và "hiệu quả kinh tế - xã hội cao".

Với quy mô lớn của thị trường điện Việt Nam, cơ chế mua bán điện không phù hợp sẽ dẫn đến những rủi ro rất lớn cho toàn xã hội.

Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy những thay đổi hay bất định trong chính sách năng lượng, thiết kế và cơ chế vận hành thị trường điện là một trong những rủi ro lớn nhất đối với các nhà đầu tư phát triển điện lực, các công ty tham gia thị trường điện lực và cả khách hàng.

Dự án cải cách thị trường điện có thể mang lại nhiều tỷ USD lợi ích kinh tế - xã hội dài hạn. Vì vậy tôi khuyến nghị cần một cơ quan chuyên trách thực hiện cải cách bài bản, khoa học.

Một số nước trong khu vực quanh ta đã thành lập những tổ chức chuyên trách thực hiện cải cách thị trường điện cho công cuộc chuyển đổi năng lượng bền vững, ít phát thải khí nhà kính của riêng họ. Với quy mô thị trường điện tương đồng Việt Nam, Úc có Ban An ninh năng lượng (Energy Security Board) để điều phối nhiều chương trình cải cách thị trường điện từ tháng 8/2017 nhằm thiết kế mới, nâng cấp thị trường năng lượng cho sau năm 2025.

Malaysia là quốc gia có hiện trạng cải cách thị trường điện khá giống Việt Nam. Họ đã có một cơ quan chuyên trách hoạch định, quản lý và điều phối cải cách ngành điện là MyPOWER (Malaysia Program Office for Power Electricity Reform Corporation) và hiện đang có những bước chuẩn bị và hành động khẩn trương để cải cách thị trường điện toàn diện cho sau 2030.

Ngày 22/11 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước các chương trình, công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành năng lượng. Với vị thế, quy mô và khát vọng phát triển của Việt Nam, tôi cho rằng Chính phủ cần nhanh chóng thiết lập một tổ chức chuyên trách phù hợp quản lý, điều phối dự án cải cách thị trường điện Việt Nam (cơ quan chuyên trách) để không bị chậm lại phía sau các nước trong khu vực. 

Tôi đã từng đề xuất xem xét thành lập ngay một Ban Cố vấn chuyên trách về cải cách ngành điện và năng lượng, và để hoạt động một cách hiệu quả, Ban Cố vấn này nên độc lập với các cơ quan đang điều hành ngành điện, mặc dù sẽ tham vấn và cộng tác chặt chẽ với các cơ quan này.

Ban Cố vấn có thể là một bộ phận nòng cốt cho cơ quan chuyên trách, là tập thể những người không chỉ có chuyên môn, am hiểu thị trường điện, năng lượng mà còn có tinh thần cải cách, sẵn sàng làm tác nhân (reform/change agent) giúp lãnh đạo và quản lý cải cách thị trường điện Việt Nam.

Tác giảThái Doãn Hoàng Cầu là tiến sĩ về hành vi kinh tế trong thị trường điện và có hơn 25 năm kinh nghiệm nghiên cứu và làm việc trong thị trường điện Úc. Ông là tác giả của cuốn sách "Thị trường điện: các vấn đề cơ bản và chuyên đề kinh tế, thương mại, quản lý" do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật xuất bản vào tháng 10/2022. Cuốn sách 20 chương, 750 trang này cung cấp những kiến thức liên ngành và kinh nghiệm thực tiễn cần biết nhằm giúp ngành điện Việt Nam chuẩn bị tốt hơn cho thị trường điện.


TheoDantri

Thứ Ba, tháng 11 28, 2023

Triển khai Quy hoạch Điện VIII: Việt Nam bước gần hơn đến mục tiêu Net Zero năm 2050

 

Việt Nam sẽ không xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới sau năm 2030 để đảm bảo giảm phát thải carbon và mục tiêu cam kết tại COP 26 về trung hòa carbon.

Triển khai Quy hoạch Điện VIII: Việt Nam bước gần hơn đến mục tiêu Net Zero năm 2050 - Ảnh 1.

Taị COP26 tháng 11/2021, Việt Nam đã cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ này. Ảnh minh họa

Với việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện quyết tâm và khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng và bền vững. Là nước đang phát triển, Việt Nam đã mạnh dạn đưa ra những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững với quan điểm xuyên suốt là “không chấp nhận phương thức tăng trưởng bằng mọi giá”.

Taị Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) tháng 11/2021, Việt Nam đã cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ này.

Đặc biệt, trong khuôn khổ Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, Việt Nam đã ban hành Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 của TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) hướng đến các mục tiêu: Đẩy mạnh phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo, giảm mạnh nhiệt điện than, phát triển hợp lý nguồn điện khí sử dụng LNG và sử dụng các nguồn điện sinh khối.

Không xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới sau năm 2030

Với vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng với mục tiêu cung ứng đủ năng lượng cho quốc gia, đáp ứng nhu cầu cho phát triển đất nước, Bộ Công Thương đã khẳng định: Việt Nam sẽ không xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới sau năm 2030 để đảm bảo giảm phát thải carbon và mục tiêu cam kết tại COP 26 về trung hòa carbon. Để thực hiện mục tiêu này, tất cả các phương án đề xuất, tính toán đều phải thực hiện chuyển đổi năng lượng tại Quy hoạch điện VIII.

Theo đó, ưu tiên khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện; tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo (tính cả thủy điện) đạt khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030, hướng tới mục tiêu tỷ lệ năng lượng tái tạo 47% với điều kiện các cam kết theo Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với Việt Nam được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất và khoảng 67,5 - 71,5% vào năm 2050.

Thực hiện khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước kết hợp với nhập khẩu: Giảm dần tỷ trọng nhiệt điện than, ưu tiên phát triển điện khí trong nước, phát triển các nguồn điện khí LNG nhập khẩu với quy mô phù hợp. Thực hiện chuyển dịch năng lượng bám sát xu thế phát triển công nghệ và giá thành trên thế giới.

Dự kiến, năm 2030, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện than đang vận hành và các dự án đang triển khai xây dựng, khả năng sẽ hoàn thành và đưa vào vận hành khoảng 30.127 MW. Định hướng năm 2050, không còn sử dụng than để phát điện, chuyển hoàn toàn sang sinh khối/amoniac, tổng công suất 25.632 - 32.432 MW, sản xuất 72,5 - 80,9 tỷ kWh (5,3 - 6,6% tổng điện năng sản xuất).

Với chương trình phát triển nguồn điện đề ra trong Quy hoạch điện VIII, mức phát thải CO2 của ngành điện năm 2030 đạt 204 - 254 triệu tấn, 2035 đạt 226 - 254 triệu tấn và đến năm 2050 sẽ ở mức 27 - 31 triệu tấn (thấp hơn hạn mức 35 triệu tấn nêu ở trên).

Triển khai Quy hoạch Điện VIII: Việt Nam bước gần hơn đến mục tiêu Net Zero năm 2050 - Ảnh 2.

Cần đẩy mạnh khuyến khích các hoạt động đầu tư điện mặt trời tự sản tự tiêu, không nối lưới để khai thác tiềm năng của năng lượng tái tạo. Ảnh minh họa.

Khuyến khích đầu tư điện mặt trời tự sản , tự tiêu

Mới đây, ngày 6/11 tại Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã giải đáp câu hỏi liên quan đến kế hoạch ban hành các cơ chế, chính sách để có hành lang pháp lý phát triển điện mặt trời mái nhà theo Quy hoạch điện VIII.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, Quy hoạch điện VIII được Chính phủ phê duyệt với tổng công suất nguồn điện là 150.489 MW (không bao gồm xuất khẩu, điện mặt trời mái nhà hiện hữu, năng lượng tái tạo để sản xuất năng lượng mới), tăng 21.000 MW so với tổng công suất nguồn điện trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh (130.000 MW).

Trong đó, tổng công suất lắp máy các nguồn điện từ năng lượng tái tạo (không kể thủy điện) đã chiếm tỷ trọng 28,5% tổng công suất nguồn điện. Đây là một tỷ trọng rất lớn mà ngay cả các nước phát triển, có trình độ công nghệ cao, sở hữu hệ thống lưới điện thông minh và các thiết bị lưu trữ điện năng ở mức cao thì tỷ trọng này cũng chỉ ở ngưỡng trên dưới 20%.

"Đây là một mục tiêu phấn đấu rất cao và bên cạnh những nỗ lực của Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là cam kết JETP", Bộ trưởng nói.

Để có thể bù đắp cho việc huy động điện năng lượng tái tạo ở mức cao trong khi đây là các nguồn điện phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, Bộ trưởng cho rằng cần nghiên cứu xây dựng cơ chế giá điện cho các nguồn điện mới như: pin tích trữ năng lượng, phát triển thủy điện tích năng… bởi đây là các nguồn điện linh hoạt cao.

Đồng thời, cần đẩy mạnh khuyến khích các hoạt động đầu tư điện mặt trời tự sản tự tiêu, không nối lưới để khai thác tiềm năng của năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời), chú trọng phát triển các loại thiết bị lưu trữ điện. Song song với đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu phát triển lưới điện thông minh; đẩy nhanh xây dựng cơ chế mua bán điện trực tiếp và thúc đẩy thị trường điện cạnh tranh ở cả 3 cấp độ.

Hiện, Bộ Công Thương đang trình Chính phủ ban hành Nghị định phát triển mặt trời áp mái và dự thảo về cơ chế mua bán điện trực tiếp trên cơ sở nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Đẩy mạnh chuyển dịch năng lượng bằng khoa học

Với quan điểm phát triển năng lượng bám sát xu thế phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là năng lượng tái tạo, gắn với chuyển đổi mô hình kinh tế đất nước theo hướng tăng trưởng xanh, kinh tế carbon thấp và các cam kết của Việt Nam trong chuyển đổi năng lượng bền vững, Quy hoạch điện VIII đã đề ra các giải pháp về phát triển khoa học công nghệ.

Theo đó, từng bước hình thành cơ chế liên kết giữa lực lượng nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo với các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương trình khoa học và công nghệ; lồng ghép hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng.

Tạo cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp năng lượng tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng.

Tiếp tục triển khai chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia về nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng giai đoạn 2021 - 2030, trọng tâm là nghiên cứu chế tạo thiết bị năng lượng và ứng dụng các dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, tiết kiệm năng lượng.

Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành, có trình độ cao; tăng cường các biện pháp nhằm gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo và ứng dụng. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu để từng bước đưa vào áp dụng các công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi phí bảo vệ môi trường.

Đẩy mạnh nghiên cứu các dạng năng lượng mới, như năng lượng hạt nhân, sóng biển, địa nhiệt, hydro xanh, amoniac xanh...; xây dựng các chiến lược về các dạng năng lượng mới khác.

Triển khai Quy hoạch Điện VIII: Việt Nam bước gần hơn đến mục tiêu Net Zero năm 2050 - Ảnh 3.

Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả còn là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất giúp giảm áp lực trong việc cung ứng năng lượng. Ảnh minh họa

Tiết kiệm điện thực chất, hiệu quả

Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả còn là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất giúp giảm áp lực trong việc cung ứng năng lượng, đồng thời giúp bảo tồn nguồn năng lượng quốc gia, bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính, đóng góp cho việc thực hiện cam kết của Việt Nam tại Thỏa thuận Paris về ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như tại COP26 về thực hiện lộ trình giảm phát thải khí nhà kính về 0 vào năm 2050.

Khảo sát của Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030 (VNEEP3) cho thấy, các ngành công nghiệp của Việt Nam đang chiếm hơn 50% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc, với tiềm năng tiết kiệm năng lượng lên tới 30 - 35%.

Hiện, cả nước có 3.068 cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, có mức tiêu thụ điện bình quân là 80 tỷ kWh/năm. Nếu các cơ sở tiêu thụ điện trọng điểm này tiết kiệm tối thiểu 2% điện năng tiêu thụ/năm thì bình quân mỗi năm cả nước tiết kiệm được khoảng 1,6 tỷ kWh, tương ứng với tiền điện tiết kiệm được hơn 3.200 tỷ đồng. Tương tự, với 27 triệu hộ gia đình, nếu tiết kiệm 1% điện thì mỗi năm cả nước tiết kiệm được 630 triệu kWh, tương đương 1.174 tỷ đồng.

Để thúc đẩy việc thực hiện các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, trong hơn 20 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã thực thi một loạt các chính sách và chương trình, hành động quan trọng như: Ban hành và triển khai Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Cùng với đó là một hệ thống các nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thông tư của Bộ Công Thương và các Bộ, ngành có liên quan được ban hành để hướng dẫn thi hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2006-2015 và Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030.

Đặc biệt, năm 2010, Chính phủ đã trình Quốc hội về Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Đây là cam kết mạnh mẽ nhất, là văn bản pháp lý cao nhất để khẳng định tất cả các chủ trương chính sách của Chính phủ về tầm quan trọng của tiết kiệm năng lượng.

Về phía Bộ Công Thương, ông Đặng Hải Dũng, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Tiết kiệm năng lượng (Bộ Công Thương) cho biết, để hiện thực hoá mục tiêu tiêu tiết kiệm năng lượng, Bộ Công Thương tập trung vào 2 nhóm đối tượng sử dụng năng lượng lớn là công nghiệp và gia đình hướng đến các chính sách hỗ trợ kỹ thuật và tài chính nhằm thúc đẩy các dự án đầu tư công nghệ sản xuất tiết kiệm năng lượng và tuyên truyền ưu tiên sử dụng thiết bị công nghệ hiệu suất cao.

Bộ Công Thương cũng đang tiến hành rà soát, sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong việc thực thi các quy định của luật. Trong quá trình rà soát, Bộ Công Thương tập trung đánh giá lại 5 nhóm vấn đề gồm: Nhóm vấn đề đối với các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm; nhóm vấn đề đối với các trang thiết bị sử dụng năng lượng; nhóm vấn đề liên quan đến các cơ sở đào tạo, đơn vị cung cấp nguồn nhân lực cho việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; nhóm vấn đề liên quan đến các cơ chế hỗ trợ tài chính cho các dự án tiết kiệm năng lượng; cuối cùng là nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, quy trách nhiệm rõ ràng hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực.

“Như vậy, lộ trình chuyển đổi năng lượng trong Quy hoạch điện VIII sẽ đảm bảo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 trong Quyết định số 896/QĐ-TTg”, Bộ Công Thương thông tin.


Theo Phan Trang

Chinhphu.vn