e

Thứ Bảy, tháng 8 27, 2011

Thăm Tháp Eiffel - Paris



* T Tôi đến Paris 3 lần và không lần nào là không đến tham quan tháp Eiffel, vì đây là biểu tượng của Paris và là một trong những kỳ quan nổi tiếng của thế giới

Tháp Eiffel (Tour Eiffel )là một tháp làm bằng sắt cao 324 mét nằm ở trung tâm Paris , ở góc phía tây bắc của công viên Champ de Mars , cạnh sông Seine . Địa chỉ chính thức của tháp Eiffel ở số 5 đại lộ Anatole France, Quận 7, Paris . Vốn có tên nguyên thủy là Tháp 300 mét (Tour de 300 mètres), được xây dựng bởi kỹ sư Gustave Eiffel và các cộng sự của ông cho Hội chợ triển lãm thương mại quốc tế Paris năm 1889, cũng là dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp, nay đã trở thành biểu tượng của thủ đô nước Pháp , thu hút khoảng 4- 5 triệu du khách trên thế giới hàng năm tới tham quan

Chiều cao của nó đã được tăng lên nhiều lần bởi việc cài đặt nhiều ăng-ten , đạt đỉnh điểm 324 m, được sử dụng để phát chương trình phát thanhtruyền hình




Được xây dựng trong hai năm, hai tháng và năm ngày (1887-1889) với 250 công nhân , được chính thức khánh thành vào ngày 31 tháng ba năm 1889 . Tháp Eiffel được đăng ký di tích lịch sử kể từ ngày 24 tháng 6 năm 1964 và được liệt kê trong di sản thế giới của UNESCO từ năm 1991 , cùng với các di tích khác ở Paris.




Tượng Gustave Eiffel tại chân tháp Eiffel

Gustave Eiffel, kỹ sư người Pháp, sinh ra ở Dijon (1832-1923), là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về thép xây dựng, ông đã xây dựng một loạt các cây cầu ở Pháp.Ông đã tham gia thiết kế Cầu Long Biên ở Hà Nội, Cầu Tràng Tiền ở Huế và Nhà Bưu Điện chính ở Sài Gòn.Lễ khánh thành tháp Eiffel vào năm 1889 bởi Tổng thống Sadi Carnot, Tổng trọng lượng của nó là 10.000 tấn,Tầng 1 ở độ cao 57 mét: nhà hàng, quầy bar và phòng trà.
Tầng 2 ở độ cao 115 mét: nhà hàng, phòng nướng, quầy bar, phòng trà và cửa sổ phòng trưng bày thấp hơn.
Trên tầng thứ 3 tại độ cao 214 mét có Thư việnTầng* .TTháp Eiffel nằm tại quận 16 gần 2 trạm Métro Bir-Hakeim và Trocadéro, là điểm tham quan du lịch thu hút khách bậc nhất của Pháp, nơi đây mỗi ngày thuờng tập trung rất đông du khách địa phương và quốc tế, dưới chân tháp lúc nào cũng có 1 hàng dài những du khách xếp hàng 1 cách kiên nhẫn để chờ đi thang máy lên tham quan tháp bất kể là ngày mưa hay ngày nắng, ban ngày hoặc là ban đêm và ngắm kinh đô Paris từ trên đỉnh tháp là 1 thú vui tao nhã của nhiều người, bạn cũng có thể thưởng thức các món ăn của Pháp ngay trên tháp, đó sẽ là 1 kinh nghiệm thú trong cuộc đời của mỗi du khách phương xa. Đã đến đây nhiều lần, trong những khoảng khắc khác nhau, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy chán ngắm tháp Eiffel, nó luôn mang trong mình 1 vẻ đẹp kiêu sa và trang nhã bất kể từ hướng nhìn nào, chính vì sự nổi tiếng cũng như tầm quan trọng của nó mà năm nào vào ngày quốc khánh của Pháp ( 14/7 ), nơi này cũng được chọn làm địa điểm tổ chức bắn pháo hoa để chào mừng quốc khánh

* Trở thành biểu tượng của "kinh đô ánh sáng", tháp Eiffel là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất toàn cầu. Từ khi khánh thành cho tới năm 2007, tháp đã có hơn 236 triệu lượt khách viếng thăm. Riêng năm 2007, tháp Eiffel đã đón tiếp gần 7 triệu du khách, giữ vị trí công trình thu phí thu hút nhất trên thế giới.

* S Sân của Palais de Chaillot, bên cạnh quảng trường Trocadéro, là địa điểm lý tưởng nhất để ngắm nhìn tháp.

* NNgay sau Triển lãm thế giới năm 1889, tháp Eiffel đã thuộc sở hữu của thành phố Paris. Hiện nay công trình do Công ty khai thác tháp Eiffel (Société d'exploitation de la tour Eiffel - SETE) quản lý. Với ba tầng sàn, không gian của tháp Eiffel được chia cho nhiều dịch vụ khác nhau. Ngoài hai nhà hàng Altitude 95 và Le Jules-Verne nằm ở tầng hai và ba, tháp còn có các hiệu ăn nhanh, phòng trưng bày, cửa hàng lưu niệm, điểm truy cập Internet, cửa hàng bán các con tem kỷ niệm của Pháp... Tổng cộng, tháp Eiffel cần đến khoảng 500 nhân viên, gồm 250 người thuộc SETE và 250 nhân viên cho các dịch vụ còn lại. Đón tiếp khách du lịch đến từ mọi quốc gia, tháp Eiffel mở cửa tất cả các ngày trong năm, từ 9 giờ tới 24 giờ trong khoảng 13 tháng 6 tới 31 tháng 8 và 9 giờ 30 tới 23 giờ trong khoảng thời gian còn lại của năm.

* Một số thông số của tháp Eiffel:

* Sử dụng 300 công nhân ngành thép và mất 2 năm xây dựng (1887-1889).

* 15.000 tấm sắt, nặng 8.092,2 tấn.

* 2,5 triệu chiếc đinh tán.

* 40 tấn sơn.

* 1.671 bậc thang.

* Chiều cao vào năm 1889: 300,51 m.

* Chiều cao khi lắp thêm anten truyền hình: 320,755 m.

* Chiều cao có thể thay đổi trong khoảng 15 cm, tùy vào tình hình thời tiết.

* Diện tích phần đế: 10.281,96 m2.

* Phần nền nặng 306 tấn.

* Toàn bộ tháp nặng 9.441 tấn.

* Thời gian xây dựng: từ 26/1/1887 đến 31/3/1889.

* Chi phí xây dựng: 7,8 triệu franc (1,5 triệu USD).



Đã hơn một trăm năm trôi qua, nhưng hình nh ngn tháp Eiffel ca nước Pháp vn còn nguyên vn giá tr trong lòng mi người dân Pháp nói chung và nhng du khách đã mt lần đặt chân tới đây. Quả thực, người ta không thể hình dung Paris mà không có tháp Eiffel.*




Thứ Năm, tháng 8 25, 2011

Renewable & Alternative Energy - a fundamentals programme




Economic stability and sustainability require energy supplies that are cleaner, readily available, reliable and cost-effective. Renewable energy is now mainstream in most energy markets, with every sign of significant growth. A major factor is that most governments have support mechanisms for renewables to mitigate climate change and increase energy security.

What are ‘renewables’? Understanding requires knowledge of the basic scientific and engineering principles, and application includes awareness of the complex planning and financing arrangements involved in renewable energy projects. As markets open worldwide, an appreciation of the ongoing technological developments in all aspects of renewables will assist in wise investment decisions.

There are many types of renewable energy; all have different benefits and downsides in different circumstances. This distance education course takes a thorough and unbiased look at each type, explaining technologies, geographic applicability and market opportunities. It gives you the insight needed to understand the complex drivers and issues behind the viability of renewable and alternative energies.

This programme is ideal for anyone looking for a comprehensive understanding and increased knowledge of renewable and alternative energies - and is particularly suitable for commercial, technical, financial, planning, legal and educational professionals. The course content includes:

Renewable Energy: Analysis of Science, Markets, Drivers of Demand and Growth
• Understanding energy
• Energy and power; their units and relationships
• Energy supply examples
- Variation of supplies by country
- Similarity of functions by country
• Why we need energy
• Classification, definitions and impacts of energy types
- Fossil fuels
- Nuclear
- Renewables
• Renewable energy in the environment
- Different forms
- Energy fluxes and availability
- The ‘big three’: solar, wind, biomass
- The other renewables
• Uses of renewable energy with examples
- Power and electricity
- Heating
- Transport
• Drivers of renewable energy demand
- Pros and cons of renewable energy
- Bio-carbon and fossil-carbon (excess fossil-carbon emissions, climate change)
- Fossil-carbon reduction, obligations and trading
- Depletion of traditional energy sources e.g. peak oil
- Energy security
- Institutional factors, portfolio standards, obligations, certificate trading, feed-in tariffs, etc.
• Electricity delivery
- Liberalised market structure, microgeneration
• Market growth in renewables
• Energy efficiency

Solar for Heat and Electricity: Technologies and Implementation
• Solar radiation
• Solar water heating
- The technologies
- The markets
• Solar-conscious buildings
- Orientation and design
- Passive solar heat (thermal capacity, insulation)
- Solar cooling
• Concentrated solar thermal power
- Principles
- Implementation
• Photovoltaic (PV) electricity
- Elementary theory
- Technologies
- PV modules and integrated systems
• Ground and air sourced heat pumps




Wind Energy: from Onshore and Offshore to Small Scale; Impacts and Challenges
• Introduction to wind energy
- International market growth
• Wind meteorology
• Wind turbine technology
- Mechanical and aerodynamic criteria
• Electricity generation
• Onshore
- Applications
- Local grid connection
• Offshore
- Applications
- National grid connection
• Small-scale
- Stand-alone
- Individual grid connection
• Environmental impact
- Visual, sound, ecological etc.
• Challenges e.g. variability, planning process

Biomass: Technologies for Heat, Electricity and Transport
• Biocarbon and climate change
• Photosynthesis
- Research and development
- Simulation and nanotechnology
• Biomass classification, yield and production
• Thermochemical processes
- Direct combustion
- Fuelwood, wastes
- Pellet and chip stoves and burners
- Co-firing
- Biofuels (solids, liquids, gases)
- Pyrolysis and gasification
- Biodiesel
• Biochemical processes
- Aerobic and anaerobic digestion
- Biogas; landfill and sewage gas
- Fermentation, bioethanol
• Agrochemical processes
• Biofuels for transport (biodiesel, bioethanol)
- Engines and mixed fuel (e.g. Brazil flexifuels and engines)
• Research and development (e.g. cellulosic ethanol, microbial fuel cells)

The Other Renewables: Hydro, Marine, Geothermal and Beyond
• Hydropower
- The Earth’s hydrologic cycle
- Energy transformation in hydropower
- From waterwheels to modern turbines
- Small hydro installations
- Pumped hydro storage
- International hydroelectric power capacity
- Environmental impact
• Wave power
- Wave power analysis
- Wave energy devices
• Tidal range power
- Tidal rhythms and enhancement
- Tidal range power plants
• Tidal current/stream power
- Technologies
• Geothermal power
- Classification of geothermal heat sources and supplies
- Enhanced Geothermal Systems (EGS) and Hot Dry Rock (HDR)
• Other renewable energy technologies and possibilities
- Solar ponds
- Ocean thermal energy
- Osmotic pressure energy conversion

Storage, Distribution, Market Mechanisms and Regulation
• Introduction to energy storage and integrating new renewables
- Thermal and phase change storage principles
• Types of energy storage
- Chemical (fuel cells, hydrogen)
- Mechanical
- Electrical
• Electricity systems and regulation (transmission, distribution, microgeneration etc.)
• Institutional factors and regulation
- Government and consumer motivation
• Financial support mechanisms
- Taxation policies
- Research, development and demonstration (RD&D)
- Quotas and certificates
- Feed-in tariffs (FITs)
• Environmental impact
• External costs
• Renewables in the future

For a full course outline, download the Fundamentals of Renewable & Alternative Energy brochure

http://www.informaglobalevents.com/event/renewable-energy-distance-learning/Course-content

Country Ranking

The Renewable Energy Olympics

Country Ranking


See the global leaders in the production of renewable energy / Credits: Allianz

The Renewable Energy Olympics

See the global leaders in the production of renewable energy. (Source: Allianz)

Thứ Bảy, tháng 8 20, 2011

Thăm hồ Balaton - Hungary


Hôm nay 20/8/2011 là Ngày Quốc Khánh nước Cộng Hòa Hungary, tôi lại chợt nhớ đến những kỷ niệm của gần 4 năm nghiên cứu sinh ở xứ sở xinh đẹp này (1970 -1973).Trong thời gian đó tôi đã được đi tham quan hầu hết các thành phố và tỉnh lỵ của Hungary theo chương trình giới thiệu nước Hung cho các du học sinh do Viện Hàn Lâm Hungary tổ chức vào dịp nghỉ hè hàng năm. Thời gian đó tôi cũng đã được đến tham quan và tắm vài lần ở Hồ Balaton nổi tiếng của Hung, mà hàng năm cứ vào dịp hè có hàng triệu du khách quốc tế đến đây.Cuối năm 2005 chúng tôi lại có dịp trở lại thăm nước Hungary, vì thời gian ngắn nên tôi chỉ có thể ở thủ đô Budapest 4 – 5 ngày, tham quan thành phố “Paris “ nhỏ ở Trung Âu và không quên dành thời gian đi thăm lại hồ Balaton. Sáng đi tầu điện ra quảng trường Moskva mua vé đi tầu hỏa đến Balaton, chiều lại trở về Budapest. Trong chuyến đi này tôi lại có dịp gặp gỡ các bạn Hung và nói chuyện vui vẻ sau trên 30 năm xa cách nước Hung.Lúc này nước Hung đã gia nhập Liên minh EU, và nghe nói đời sống chung cũng chưa cao lắm, vì giá trị của đống Forint không còn cao so với đồng Euro.Tới Balaton sau khi tham quan dọc một phần bờ hồ, chúng tôi tìm được một quán ăn ven hồ, thưởng thức lại món xúp cá (halászlé) nổi tiếng của Hung và uống rượu vang chế biến ở Balaton, thế mà khi trả tiền cũng sững sờ vì giá đắt ngang bằng lương 1 tháng của nghiên cứu sinh ( 1000 Forint) những năm 70.








Mc dù không có bin, nhưng Hungary là x s có nhiu sông h, trong s đó, ni tiếng nht là dòng sông xanh Danube và h Balaton, thường được gi là "Bin H" ca nước Hung.

Nằm cách thủ đô Budapest chừng 100 cây số về hướng Tây Nam, Balaton chẳng những là hồ lớn nhất trong số hơn 1.200 hồ lớn nhỏ tại Hung, mà còn là hồ có diện tích rộng nhất của vùng Trung Âu. Cái tên Balaton ngày nay xuất phát từ chữ "blato", tiếng Slave cổ có nghĩa là đầm lầy. Với diện tích gần 600 km2, dài 78 km, rộng từ 1,3-12,7km, độ sâu trung bình 3-3,6m, điểm sâu nhất 12,5m, Balaton trở thành trung tâm nghỉ ngơi và giải trí của nước Hung từ thế kỷ XVIII, XIX. Hàng năm, tại vùng hồ, trung bình có 2.000 giờ nắng, tạo nên nhiệt độ mùa hạ ở hồ là 25-27 độ, khiến Balaton cũng là nơi nghỉ mát, tắm, và bơi được ưa chuộng nhất vùng Trung Âu








Balaton và vùng lân cận là là khu nghỉ mát sơn thủy hữu tình nổi tiếng nhất, cũng như là địa điểm du lịch được khách nước ngoài ưa chuộng nhất của nước Hung, sau thủ đô Budapest. Tại đây, du khách vừa có thể nghỉ ngơi, giải trí, ngâm mình tắm ven hồ, hoặc tham gia các chuyến du lịch sinh thái ở các khu rừng rậm lân cận để có cảm giác gần gũi thiên nhiên, cũng như, tim hiểu những di tích lịch sử, văn hóa, những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Hung. Tại vùng quanh hồ, có rất nhiều bảo tàng ngoài trời ghi dấu ấn xưa và nay, những thành quách, nhà thờ, tu viện từ thời Trung cổ, mà nổi tiếng nhất là tu viện dòng tu Beneditine từ thế kỷ XII, được đưa vào danh sách di sản văn hóa thế giới của UNESCO, cũng như những khu cư dân, làng bản được bảo tồn y hệt như mấy trăm năm về trước, để du khách tìm hiểu cuộc sống và sinh hoạt của người dân cách đây vài thế kỷ.








Trời nóng nghỉ ăn kem ở Balaton

Xin điểm qua một vài địa danh rất đáng chú ý quanh hồ Balaton, là những "vệ tinh" mà du khách không thể bỏ qua khi tới nghỉ ngơi thăm thú ở vùng hồ.

Rất đáng kể là lâu đài cổ Festetics tuyệt đẹp tại thị trấn Keszthely gần Balaton, được xây vào năm 1745 với cả thảy 100 phòng, đứng thứ tư trong số các lâu đài cổ ở Hung, từng là nơi cư ngụ của dòng họ quý tộc Festetics giàu có nổi tiếng ở Hungary, là nơi thu hút nhiều du khách ngoại quốc


Festetics - Keszhely

Gần Keszthely, có hồ nước nóng tự nhiên Hévíz rất được ưa chuộng, nước khoáng trong hồ và lớp bùn đen dưới đáy hồ có tác dụng trị bệnh phong thấp và những bệnh liên quan đến hệ thần kinh; tác dụng chữa bệnh của nước hồ này đã được phát hiện từ năm 1730. (Cần nói thêm là trên khắp đất nước Hungary - đặc biệt là một số vùng gần hồ Balaton - có rất nhiều hồ hay suối nước nóng, trong đó một số có chứa sẵn khoáng chất. Từ hàng ngàn năm nay, tổ tiên người Hung đă tin rằng việc ngâm mình trong nước khoáng có tác dụng trị bệnh. Đặc biệt, mỗi loại nước khoáng ở Hung có đặc tính chữa một loại bệnh riêng biệt nào đó. Ví dụ như, nước khoáng ở Hajdúszoboszló - một thị trấn nổi tiếng với những "thủy cung", công viên nước - có tác dụng làm cho các vết mổ mau lành. Ngoài ra, cũng có những loại nước khoáng dành cho những người gặp những vấn đề về bệnh phổi, bệnh viêm khớp, v.v...)


Héviz

Rảo bước qua bờ Bắc của Balaton, du khách tới Balatonfüred, được phong danh hiệu "thành phố nghỉ mát chữa bệnh" đầu tiên trên nước Hung, đồng thời, vì nền văn hóa rượu vang nổi tiếng, còn được danh hiệu "Thành phố Quốc tế của Nho và Rượu". Thành phố rất quan trọng này của du lịch Balaton, không những được lưu tâm có có phong cảnh rất nên thơ, mà còn nổi tiếng với dạ hội Anna được tổ chức thường niên vào mùa hè kể từ năm 1825.


Balatonfured

Đến Tihany, nơi hẹp nhất của hồ Balaton và có thể đi phà qua bờ bên kia, chúng ta được chứng kiến một thị trấn mang ý nghĩa lịch sử tôn giáo và Giáo hội đặc biệt, với tu viện xây từ năm 1055 và tờ quyết định xây dựng tu viện này là văn bản cổ nhất của Hungary, cũng như với vô số nhà thờ, bảo tàng... xây theo trường phái Baroque từ thời Thổ Nhĩ Kỳ còn xâm chiếm nước Hung.


Phong cảnh Tihany

Balaton còn là địa điểm mà những người mê câu cá rất ưa chuộng, với loại cá măng nhỏ, dưới 1 cân rưỡi, thích hợp cho các món rán đặc sản của vùng Balaton, cũng như chép có vị đặc biệt, dùng để nấu món xúp cá (halászlé) nổi tiếng của Hung. Quanh hồ Balaton là những vùng quê trồng nho, với những ruộng nho bạt ngàn và những thương hiệu rượu nho rất nổi tiếng ở Hung như Boglár, hay là Kőröshegy.








Bên bát xúp cá (halaszlé) kiểu Balaton, đặc sản của Hungary

Balaton cũng được du khách biết đến như nơi tổ chức những sự kiện thể thao sông nước lớn vào mùa hạ, như bơi vượt hồ, đua thuyền, hoặc những chuyến du lịch chuyên đề như tìm hiểu sông nước, ẩm thực vùng ven hồ, hoặc đi vào các hầm rượu tìm hiểu cách chế rượu nho. Cái hay là không ít du khách nước ngoài đã chọn phương án rất dân dã và ít tốn kém là thuê nhà của dân địa phương, để được dịp tìm hiểu cuộc sống của dân Hung và nghệ thuật ẩm thực của nước Hung trực tiếp qua những bàn tay nội trợ của chủ nhà mến khách.








Chụp ảnh ở Tihany

Lần lại lịch sử, trong thập niên 50-70 thế kỷ trước, mấy chục năm trước ngày nước Đức thống nhất và Hung còn là một nước XHCN, chính tại vùng hồ Balaton, người dân hoặc các gia đình Đông và Tây Đức đã cò dịp gặp gỡ, hàn huyên, mừng tủi vì vận nước chia cắt. Đến giờ, dân du lịch Đức, đa phần là các ông bà về hưu, khi xuống Balaton, vẫn còn hồi tưởng đến thời kỳ đó như những ngày tháng đẹp đẽ của họ.

Thời gian đến đây, cho dù thời tiết thất thường, nhưng cái nóng nực của mùa hạ đã đến Hungary rất sớm, khiến ở vùng hồ Balaton, đến nay, nhiều gia đình đã treo biển "Hết chỗ", chứng tỏ sự quan tâm và sức hấp dẫn của Balaton chưa hề thuyên giảm, cho dù trong vùng Trung Âu, ngày càng nhiều những điểm du lịch đang chờ đợi khách thập phương mỗi dịp hè về...

Tạm biệt Balaton để trở về Budapest!!!!

Thứ Ba, tháng 8 16, 2011

Nhiên liệu sinh học

Tin Tham Khảo :

Các nhà hoạt động môi trường của tổ chức Hòa bình Xanh – Greenpeace, vừa công bố kết quả một công trình nghiên cứu, trong đó đã đặt nghi vấn cho ưu thế chính của nhiên liệu sinh học là an toàn đối với môi trường.

Triệt hạ cỏ dại, cây bụi để trồng cây nhiên liệu sinh học đã làm tăng lượng khí thải CO2

Nếu tin vào kết luận của Greenpeace thì xăng sinh học chế từ cây cỏ, làm hại cho môi trường còn kinh khủng hơn so với nhiên liệu truyền thống được lọc từ dầu mỏ.

Công trình nghiên cứu của Greenpeace dựa trên số liệu của Braxin, Inđônêxia, Mỹ và các nước Liên hiệp Châu Âu (EU) vốn là những nơi trồng nhiều hạt cải dầu, cọ, đậu tương, ngô, mía, sắn để chiết xuất thành xăng. Nhiên liệu sinh học được chế ra từ dầu thực vật đã qua xử lý bằng methanol hay ethanol. Nhiên liệu sinh học có thể được dùng ở dạng nguyên chất hoặc trộn với dầu diesel thông thường.

Tại Châu Âu xăng sinh học được khuyến khích bằng các biện pháp hành chính: tỷ lệ nhiên liệu sinh học tối thiểu trong dầu diesel thông thường được quy định bằng pháp luật và mỗi năm một tăng. Hiện tại nhà cung cấp dầu diesel buộc phải pha trộn diesel từ dầu mỏ với ít nhất 5,75% nhiên liệu sinh học.

Tổ chức Greenpeace lưu ý rằng để trồng cây nhiên liệu cho xăng sinh học thì khắp nơi trên thế giới người ta đã chặt phá hàng trăm hec-ta rừng khiến cho khí thải CO2 tăng cao. Từ đây mà có hiệu ứng khí hậu tiêu cực được nhắc đến trong công trình nghiên cứu của Greenpeace. Bản thân các đồn điền trồng cọ hay đậu tương không bù đắp được sự thiệt hại từ việc phá rừng. Tại Châu Âu việc triệt hạ cỏ dại, cây bụi để trồng cây nhiên liệu sinh học đã làm tăng lượng khí thải CO2 lên 56 triệu tấn, tương ứng với lượng khí thải hàng năm của 20 – 26 triệu xe ô tô chạy bằng xăng.

Để so sánh thiệt hại từ việc đốt cháy nhiên liệu thông thường với thiệt hại từ xăng sinh học ta lấy lượng khí thải CO2 từ xe Volkswagen Golf (chạy 100 km hết 8,8 lít xăng) làm chuẩn. Nếu chiếc xe này vượt qua quãng đường 300 m bằng nhiên liệu chiết từ dầu cọ thì nó nhả vào khí quyển chỉ 35 g khí thải chứ không phải 74 g như khi chạy bằng dầu diesel tinh lọc từ dầu mỏ. Nhưng nếu cộng vào đây hiệu ứng từ việc phá rừng thì sau quãng đường 300 m chạy bằng nhiên liệu sinh học lượng khí thải độc hại mà động cơ nhả ra sẽ lên tới 89 g. Như vậy là xăng sinh học độc hơn xăng thông thường!

Các tác giả của công trình nghiên cứu có thiện cảm hơn đối với nhiên liệu sinh học ethanol. Đây là cồn ethanol được chiết ra từ cây mía hoặc ngô. Ethanol có thể được pha thêm xăng thông thường hoặc được dùng nguyên chất để chạy xe.

Vladimir Chuprov, Giám đốc Chương trình năng lượng Greenpeace tại Nga, giải thích rằng kết luận chính của công trình nghiên cứu nói trên không phải là để phủ nhận nhiên liệu sinh học mà lưu ý tới cách tiếp cận hợp lý trong việc thay thế xăng thông thường

Ông nói: “Từ góc độ khí hậu thì sản xuất nhiên liệu sinh học không phải là vô hại, nhưng có thể giải quyết vấn đề này. Đối với hệ sinh thái thì so với dầu cải và dầu cọ dĩ nhiên nên chọn ethanol sinh học và khí sinh học hơn”.

Greenpeace cho rằng đối với riêng Nga, Canađa và Braxin thì lãnh thổ rộng lớn cho phép trồng nhiều cây nhiên liệu mà không làm tổn hại đến sinh quyển.

Chuprov cho biết: “Ở Nga đất canh tác bị bỏ hoang tới 40 – 60 triệu ha, mà đó là con số chính thức, có thể trồng trên đó các loại cây phát triển nhanh để chế khí sinh học hay cồn ethanol, mỗi ha thu được 10 tấn nhiên liệu. Nhân lên 40 triệu ha thì ta có 500 triệu tấn nhiên liệu. Cả nước Nga cũng chỉ dùng tới 1 tỷ tấn mà thôi”.

Mặc dù ở Nga vấn đề nhiên liệu sinh học không cấp thiết như ở các nước EU song việc nghiên cứu theo hướng này cũng đang được thực hiện. Vladimir Volodin, Giám đốc Phòng Thí nghiệm Hóa sinh và Công nghệ sinh học thuộc Viện Sinh học Komi, cho biết rằng các nhân viên của ông đang thử nghiệm trồng vi tảo đơn bào.

Vi tảo cũng là nhiên liệu sinh học, nó có thể thay cho các loại nông sản nhưng không cần đất trồng. Có thể nuôi vi tảo tại các hồ nước chuyên dụng và tỷ lệ năng lượng của loại thực vật này cũng khá lớn. Tuy nhiên, ở Nga việc chuyển sang nhiên liệu sinh học chưa phải là vấn đề của hôm nay mà cũng chưa phải của ngày mai.

Các chuyên gia cho rằng nhiên liệu sinh học có độ axit cao, còn chất este chứa trong đó có thể gây hại cho động cơ, trong khi đó việc tinh lọc lại quá đắt đỏ.

Các nhà sản xuất nhiên liệu cũng chưa quan tâm tới xăng sinh học. Dmitry Dolgov, đại diện chính thức của đại gia dầu mỏ Lukoil, nhấn mạnh: “Hãng chúng tôi hiện chưa sản xuất nhiên liệu sinh học và cũng chưa nghiên cứu việc này. Tại EU có đòi hỏi phải pha 5,75% nhiên liệu sinh học vào dầu diesel thông thường. Ở Nga chưa có luật như vậy, do đó mà thị trường cũng không có. Song Nga đang chuẩn bị gia nhập WTO nên rõ ràng sớm hay muộn cũng sẽ xuất hiện những đòi hỏi như vậy”.

(theo Izvestia.ru)

Thứ Tư, tháng 8 10, 2011

Thăm tháp nghiêng Pisa - Italy


Trong thời gian du lịch nước Ý, chúng tôi không quên đến tham quan tháp nghiêng nổi tiếng Pisa.Từ thành phố Florence đến thành phố Pisa trời nắng to và khí hậu nóng bức như ở VN, theo sự hướng dẫn của anh Dũng vừa là lái xe , vừa là hướng dẫn viên du lịch, chúng tôi chỉ đến quảng trường chụp ảnh khu vực xung quanh tháp Pisa, ngắm toàn cảnh hùng vĩ. Vì rất đông khách tham quan nơi này, nên cũng không thể trèo lên tháp được.



Tháp nghiêng Pisa (tiếng Ý: Torre pendente di Pisa) là một tòa tháp chuông tại thành phố Pisa (Ý) được xây dựng năm 1173. Toà tháp cao 55,86 m từ mặt đất ở phía thấp nhất và 56,70 m ở phía cao nhất. Chiều rộng những bức tường móng là 4,09 m và ở trên đỉnh là 2,48 m . Ước tính trọng lượng của nó khoảng 14.500 tấn. Tháp có 294 bậc.

Ngay trong khi xây dựng, người ta đã phát hiện toà tháp bị nghiêng. Hiện nay các biện pháp địa kĩ thuật đang được tiến hành nhằm đảm bảo độ ổn định cho tháp. Vẻ đẹp của tòa tháp cùng với độ nghiêng của nó cuốn hút khách du lịch hàng năm tới Pisa.



Tháp nghiêng Pisa là một công trình nghệ thuật, được xây dựng trong ba giai đoạn với tổng thời gian khoảng 174 năm. Việc xây dựng lầu chuông tầng thứ nhất bằng đá cẩm thạch bắt đầu ngày 9 tháng 8, 1173, một giai đoạn của sự thịnh vượng và những thắng lợi quân sự. Tầng này được bao quanh bởi những cộtđầu cột kiểu cổ điển đỡ các vòm rèm. Ngày nay sau thời gian hàng thế kỷ cùng những ảnh hưởng thời tiết chúng vẫn còn nguyên vẹn.


Nguồn gốc Tháp nghiêng Pisa

Ngôi tháp nổi tiếng được xây dựng để cho cả thế giới thấy được sự thịnh vượng của thành phố Pisa, Italy. Người dân Pisa là những thủy thủ thiện nghệ, họ đã chinh phục được nhiều vùng đất, từ Jerusalem tới Carthago, Ibiza, Mallorca, châu Phi, Bỉ, Anh, Nauy, Tây Ban Nha và nhiều nơi khác.

Họ chỉ có một đối thủ thực sự duy nhất, đó là Florence( cũng là 1 tỉnh của Italy). Và để cho những kẻ cứng đầu này biết dân Pisa đã làm được gì, họ bắt đầu xây dựng một tháp chuông, để tương xứng với những công trình xung quanh đó như nhà thờ, nơi rửa tội và nghĩa địa.



Phần chân tháp được khởi công vào năm 1173. Sau đó, cuộc chiến với Florence tái diễn và công việc thi công bị đình trệ. Năm 1180, mọi việc được bắt đầu lại. 5 năm sau đó, tầng 1, tầng 2, rồi tầng 3 được hoàn tất.


Năm 1319, tất cả các tầng được hoàn tất. Quả chuông trên đỉnh tháp được treo vào năm 1350.

Lần đầu tiên trong 800 năm, Tháp nghiêng Pisa ngừng nghiêng

Lần đầu tiên kể từ thế kỷ 12, Tháp nghiêng Pisa - biểu tượng của đất nước Italia và là một trong những điểm du lịch hấp dẫn nhất thế giới, cuối cùng cũng đã ngừng chuyển động và sẽ vẫn an toàn trong 300 năm tới.

Cách đây 18 năm, Tháp nghiêng Pisa cao 56 mét đã bị đóng cửa đối với du khách do lo ngại nó có thể đổ sập. Nhưng các nỗ lực cứu toà tháp bớt nghiêng đã thành công nhờ một dự án trị giá 40 triệu USD.

“Những kỳ vọng của chúng tôi đã được chứng minh. Giờ đây chúng tôi có thể khẳng định rằng Tháp nghiêng Pisa sẽ không chuyển động nữa trong vòng ít nhất là 300 năm tới”, Michele Jamiolkowski, một nhà thiết kế tại thành phố Turin và là trưởng dự án bảo vệ toà tháp, cho biết.

Phải mất 10 năm, các chuyên gia mới làm ổn định được toà tháp. Hiện nay, Tháp Pisa nghiêng 4m so với chiều thẳng đứng. Kể từ năm 1999, toà tháp lừng danh đã được kéo thẳng 37cm.

Trong số các các công đoạn của dự án có việc neo toà tháp với các dây cáp, di chuyển 77 tấn đất từ bên trái để kéo lại toà tháp vốn nghiêng về bên phải.


Nhiều năm liền, Pisa từng được công nhận là toà tháp nghiêng nhất thế giới trong sách kỷ lục Guinness .

Năm 1987, tháp nghiêng Pisa và quần thể các thánh đường, nhà thờ và nghĩa trang cạnh đó được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới.

Tháp Pisa tại Italia từ lâu vốn nổi tiếng thế giới bởi độ nghiêng. Nhưng sự ra đời của Capital Gate với độ nghiêng gấp hơn 4 lần so với Tháp nghiêng Pisa


Công trình gồm 35 tầng, cao 160m.

Sách các kỷ lục Guinness thế giới mới đây đã công nhận toà nhà Capital Gate ở Abu Dhabi thuộc Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất là tháp nghiêng nhất thế giới với độ nghiêng 18 độ, tức gấp hơn 4 lần so với công trình nổi tiếng ở Italia. Độ nghiêng của tháp Pisa là 3,97 độ.

Tuy nhiên, nếu Pisa nghiêng tự nhiên thì Capital Gate lại được cố tình xây dựng để nghiên sang một bên. Công trình gồm 35 tầng này được thiết kế bắt đầu nghiêng kể từ tầng 12 trở đi. Tính tới tầng 35, tháp này nghiêng so với trục thẳng đứng của toà nhà 18 độ.ài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ