Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) là quy hoạch ngành quốc gia đặc biệt quan trọng, có độ phức tạp cao và được nhiều cơ quan, đơn vị, chuyên gia, nhà khoa học cũng như các địa phương trong cả nước đặc biệt quan tâm. Đây là quy hoạch ngành quốc gia được triển khai đầu tiên theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017. Để giúp bạn đọc có thêm thông tin tổng quan về vấn đề này, Báo Công Thương Điện tử xin trân trọng giới thiệu loạt bài 'Quy hoạch điện VIII – bài toán chiến lược cấp bách'
Tổng quan về nguồn điện và lưới điện ở Việt Nam hiện nay
Theo báo cáo tại của Bộ Công Thương tại hội nghị trực tuyến với các địa phương về hoàn thiện Quy hoạch điện VIII do Phó Thủ tướng Lê Văn Thành chủ trì ngày 15/4 vừa qua, tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm bình quân giai đoạn 2011-2015 đạt 10,7%/năm, giai đoạn 2016-2020 đạt 9,6%/năm (riêng năm 2020 chỉ đạt 3,36% do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19).
Tiêu thụ điện tập trung chủ yếu tại miền Bắc và miền Nam, chiếm tới 90% tổng lượng điện tiêu thụ toàn quốc. Miền Trung chiếm tỉ lệ thấp, khoảng 10%. Tỷ trọng tiêu thụ điện của miền Bắc có xu hướng tăng dần (39,2% năm 2011, 44,1% năm 2020), miền Nam có xu hướng giảm dần tỷ trọng tiêu thụ điện (51,1% năm 2011, 47% năm 2020).
Tính tới cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt các loại hình nguồn điện của hệ thống điện quốc gia đạt 69.342 MW, trong đó miền Bắc 25.121 MW (36,2%), miền Trung 12.323 MW (17,8%) và miền Nam 31.898 MW (46%). Về cơ bản, hệ thống điện đảm bảo đáp ứng nhu cầu phụ tải của toàn quốc.
Công trình Thủy điện Sơn La
Điện gió, điện mặt trời phát triển mạnh
Trong giai đoạn 2016-2020, tổng số các dự án điện mặt trời được phê duyệt bổ sung quy hoạch là 175 dự án với tổng công suất 19.126 MWp (tương ứng khoảng 15.400 MW ac). Các dự án được bổ sung quy hoạch tập trung chủ yếu tại miền Trung và miền Nam (chiếm tới trên 96%). Phần lớn các dự án điện mặt trời quy mô lớn do Bộ Công Thương quyết định bổ sung quy hoạch đã đi vào vận hành trong khi các dự án do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung quy hoạch mới đưa vào vận hành khoảng 42% (4.617/11.179 MW). Hiện nay, còn khoảng 41 dự án/6.083 MW đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch và chưa đưa vào vận hành. Các dự án này sẽ được xem xét, đánh giá tính khả thi phát triển trong thời gian tới đây.
Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã phê duyệt danh mục nguồn và lưới điện đấu nối cho 11.741 MW/188 dự án điện gió. Khoảng 99% các dự án điện gió (187 dự án/11.621 MW) được bổ sung quy hoạch tập trung tại khu vực miền Trung và miền Nam, chỉ khoảng 1% tập trung tại khu vực miền Bắc.
Hệ thống điện Việt Nam hiện đang vận hành với nhiều cấp điện áp từ hạ áp (0,4 kV) đến trung áp (6-35 kV), cao áp (110, 220 kV) và siêu cao áp (500 kV). Tới cuối năm 2020, cả nước có 8.527 km đường dây 500 kV, 18.477 km đường dây 220 kV, 37 trạm biến áp 500 kV/tổng dung lượng 42.900 MVA, 136 trạm biến áp 220 kV/tổng dung lượng 67.824 MVA. Ngoài ra, có 866 trạm biến áp, 24.318 km đường dây 110 kV, 360.000 km lưới điện trung áp, 350.000 km lưới điện hạ áp, đảm bảo cung ứng điện cho 28,94 triệu khách hàng, 100% số xã, 99,47% số hộ dân (99,18% số hộ dân nông thôn).
Đánh giá chung về phát triển nguồn và lưới điện cho thấy: Về cơ bản, tổng công suất lắp đặt hệ thống điện đảm bảo đáp ứng nhu cầu phụ tải cực đại của toàn quốc nhưng mức độ dự phòng công suất khả dụng của hệ thống chưa cao (9,06% vào mùa mưa và khoảng 8,16% vào mùa khô); sự chênh lệch mức dự phòng khả dụng giữa các miền khá lớn.
Nhiều nguồn điện xây dựng chậm tiến độ; phát triển nguồn điện chưa phù hợp với sự phân bố phụ tải. Tăng trưởng nguồn điện tại miền Bắc thấp hơn so với tăng trưởng công suất cực đại (9,3% so với 4,7%); tăng trưởng nguồn điện tại miềnTrung và miền Nam cao hơn nhiều so với tăng trưởng công suất cực đại.
Cơ cấu nguồn điện phân bố không đều tại các miền (miền Bắc chủ yếu là nhiệt điện than, miền Trung chủ yếu là thủy điện và miền Nam chủ yếu là nhiệt điện khí).
Lưới điện vận hành còn nhiều khó khăn, một số khu vực lưới điện 220 kV và 110 kV vẫn còn xuất hiện tình trạng đầy và quá tải lưới điện, chưa đáp ứng tiêu chí N-1 về độ tin cậy nên tiềm ẩn rủi ro trong việc vận hành an toàn hệ thống điện. Tốc độ phát triển lưới điện phát triển chậm hơn so với tốc độ phát triển nguồn điện, đặc biệt là chưa đồng bộ với các nguồn năng lượng tái tạo khiến một số nguồn điện năng lượng tái tạo bị cắt giảm công suất phát…
Điện mặt trời vượt hơn 10 lần so với quy hoạch
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, xây dựng nguồn điện trong giai đoạn 2016-2020 chỉ đạt 28.479 MW trên tổng công suất quy hoạch dự kiến là 35.483 MW, đạt 80%. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hiện quy hoạch của các nguồn điện lớn (than, khí) đóng vai trò quan trọng đảm bảo an ninh cung cấp điện và là nguồn điện chạy nền đạt thấp (63%), dẫn tới thiếu hụt nguồn cấp và tỉ lệ dự phòng công suất của hệ thống thấp.
Điện mặt trời thực hiện vượt cao hơn nhiều so với quy hoạch đặt ra (gần 8.700 MW điện mặt trời quy mô trên 1 MW đã vào vận hành tới năm 2020 so với dự kiến khoảng 700 MW đề ra trong Quy hoạch), tập trung chủ yếu tại khu vực miền Trung và miền Nam.
Tỷ lệ thực hiện quy hoạch các công trình lưới điện gồm có Trạm biến áp 500 kV và 220 kV lần lượt là 88,8% và 90,6% và đường dây 500 kV và 220 kV lần lượt là 77,6% và 73,9%. Vận hành lưới điện còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn rủi ro vận hành vào các thời điểm cao điểm.
Hiện nay phát triển nguồn điện mất cân bằng giữa các vùng miền. Nhiều nguồn điện khu vực miền Bắc chậm tiến độ dẫn tới tình trạng thiếu hụt công suất nguồn điện vào một số thời điểm. Năng lượng tái tạo phát triển nóng tại cuối kỳ quy hoạch tại miền Trung và miền Nam. Cơ sở hạ tầng lưới điện chưa đáp ứng được yêu cầu vận hành an toàn, tin cậy. Tỷ lệ thực hiện phát triển lưới điện 500 kV so với quy hoạch đạt 72,2%, lưới điện 220 kV đạt 80% nên lưới điện tại một số khu vực xuất hiện tình trạng đầy và quá tải lưới điện trong vận hành.
Quy mô nguồn điện Việt Nam xếp thứ 23 thế giới
Theo báo cáo của Bộ công Thương, kết quả thực hiện Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnhđã bảo đảm được cân đối lớn về an ninh năng lượng quốc gia giai đoạn 2016-2020. Cung cấp điện cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với chấtlượng ngày càng cải thiện.
Quy mô nguồn điện của Việt Nam năm 2020 tăng gần 2 lần so với năm 2015, đứng thứ 2 trong các nước ASEAN và đứng thứ 23 thế giới. Hệ thống điện phát triển theo hướng hiện đại và phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) phát triển mạnh, từng bước góp phần vào việc giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và tăng tính chủ động trong việc cung cấp điện.
Đầu tư hạ tầng cung cấp điện có sự phát triển mạnh mẽ, đưa điện lưới quốc gia tới hầu hết mọi miền của đất nước với gần 100% số hộ dân (99,47%) được cung cấp từ lưới điện quốc gia. Cơ sở hạ tầng điện lực này càng hiện đại, tỷ lệ tổn thất điện năng giảm đáng kể trong giai đoạn 2016-2020, vượt kế hoạch đề ra.
Các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển ngành điện ngày càng đa dạng giúp giảm gánh nặng đầu tư từ ngân sách cho phát triển điện lực. Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả từng bước được quan tâm và mang lại kết quả tích cực (hệ số đàn hồi điện/GDP giảm từ 1,84 lần giai đoạn 2011- 2015 xuống 1,44 lần giai đoạn 2016-2020).
Một số bất cập trong thực hiện Quy hoạch điện VII điều chỉnh
Phát triển hệ thống điện chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực sẵn có. Phát triển nguồn điện chưa phù hợp với phân bố và phát triển phụ tải, gây mất cân bằng cung - cầu miền, tạo sức ép lên lưới truyền tải liên miền (từ miền Trung, miền Nam ra miền Bắc), gây lãng phí, tổn thất và rủi ro vận hành an toàn.
Các nguồn điện lớn chậm tiến độ kéo dài gây thiếu nguồn điện chạy nền cho hệ thống điện. Nguy cơ thiếu hụt cung cấp điện cao trong trung và dài hạn (theo đánh giá, nếu tăng trưởng kinh tế phục hồi nhanh, miền Bắc có thể thiếu điện từ năm 2022, miền Trung và Nam thiếu điện giai đoạn 2024-2025).
Mức dự phòng công suất khả dụng của hệ thống khá thấp, chưa đáp ứng tiêu chuẩn vận hành chung của hệ thống điện, gây khó khăn cho công tác vận hành (một số thời điểm đã phải sa thải phụ tải tại khu vực miền Bắc). Phát triển nóng các loại hình điện gió, mặt trời (tập trung ở miền Trung, miền Nam); tính đồng bộ trong phát triển nguồn và lưới điện còn hạn chế, không kịp giải tỏa công suất nguồn điện. Tỷ trọng cao (24,3% tổng công suất, 44% công suất tiêu thụ) các nguồn điện gió, điện mặt trời gây khó khăn trong công tác vận hành, điều độ hệ thống điện, ảnh hưởng vận hành các nguồn nhiệt điện than, khí.
Điện năng sản xuất từ nguồn nhiệt điện than (nguồn phát thải nhiều khí CO2) chiếm tỉ trọng lớn (khoảng 50% tổng điện năng sản xuất). Nguồn điện này phát thải nhiều khí CO2 và cần phải được hạn chế phát triển nhằm đáp ứng các cam kết của Việt Nam đối với quốc tế về phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính.
Phát triển lưới điện truyền tải chưa đi trước một bước để phát huy hiệu quả các nguồn điện; lưới điện chưa được đầu tư kịp thời, dự án triển khai kéo dài, chậm tiến độ dẫn tới tình trạng quá tải cục bộ, vận hành gặp khó khăn, chưa đảm bảo tính kinh tế - kỹ thuật của hệ thống.
Hiệu quả khai thác và sử dụng điện còn chưa cao (hệ số đàn hồi điện là 1,44 lần giai đoạn 2016-2020 vẫn cao hơn hệ số đàn hồi của các nước ASEAN ước tính khoảng 1,36 lần) do phát triển kinh tế vẫn dựa vào các ngành công nghiệp có mức thâm dụng năng lượng lớn.
Giá điện chưa đủ hấp dẫn để thu hút đầu tư vào ngành cũng như thúc đẩy, tạo động lực cho các hoạt động sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả. Cơ cấu nguồn điện có tỉ lệ các nhà máy điện than còn cao, tiềm ẩn nguy cơ làm tăng phát thải khí CO2, ảnh hưởng tới môi trường.
Bài toán cấp bách
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị trực tuyến toàn quốc, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đặt vấn đề, đây là một quy hoạch khó, vì phải giải bài toán tổng hợp các yếu tố: đặt nguồn điện ở đâu, vừa tính toán lượng hao hụt khi phải truyền tải điện đi xa, vừa phải bảo đảm phụ tải, bảo đảm giá thành hợp lý, đồng thời phải thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 "đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050".
"Nếu đưa vào quy hoạch nhiều quá thì sau này sẽ gây lãng phí, hiệu quả khai thác của các nhà máy sẽ thấp", Phó Thủ tướng lấy ví dụ. "Sản xuất điện ra với giá thành thấp nhưng vận chuyển xa thì dẫn tới hao hụt, cộng thêm chi phí đường dây cũng như rủi ro khi có sự cố như thiên tai".
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Đoàn Thị Thanh Mai: Lập Quy hoạch điện VIII là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Tại phiên giải trình về an ninh năng lượng, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cũng đặt ra vấn đề cần phải sớm hoàn thiện Quy hoạch điện VIII bởi nhu cầu điện cho sinh hoạt và sản xuất, phục vụ phát triển kinh tế ngày càng tăng. Tại Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ đã cam kết đưa phát thải ròng của Việt Nam bằng 0. Đây là nội dung cần phải được thể hiện trong Quy hoạch điện hướng tới phát triển năng lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và bền vững. Đây cũng chính là nội dung được Bộ Chính trị đề ra tại Nghị quyết 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Như vậy, những nội dung yêu cầu này sẽ được thể hiện như thế nào trong Quy hoạch điện VIII.
Đặc biệt, Phó Thủ tướng lưu ý một vấn đề là nhu cầu đăng ký của các doanh nghiệp, các địa phương rất lớn, đến năm 2030 đăng ký quy hoạch khoảng gần 520.000 MW, gấp khoảng 3,5 lần dự kiến tổng công suất đặt hệ thống điện quốc gia năm 2030. Tuy nhiên, với tinh thần "đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết, trước hết", bảo đảm an ninh năng lượng, khoa học, hiệu quả, Quy hoạch không thể đáp ứng được hết các yêu cầu của doanh nghiệp, địa phương với số lượng đăng ký lớn như vậy.
Báo cáo tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An cho biết, so với các phương án đã trình trước đây, dự thảo lần này đã giảm triệt để phát thải khí CO2 do không phát triển các nhà máy nhiệt điện than trong thời kỳ quy hoạch. Thực hiện chuyển đổi nhiên liệu từ than sang biomass và amoniac, từ khí tự nhiên, LNG sang hydrogen.
Đặc biệt, cơ cấu nguồn điện và phân bổ không gian phát triển có nhiều thay đổi so với trước đây. Hệ số dự phòng trước đây là 1,93 thì bây giờ là 1,54, qua đó, sẽ tiết giảm vốn đầu tư xã hội. Trên cơ sở phân bổ vùng hợp lý hơn, tiết kiệm đầu tư đường dây khoảng 13 tỷ USD.
Tổng quy mô công suất nguồn điện dự kiến phát triển đến năm 2030 dự kiến khoảng 146.000 MW, giảm khoảng 35.000 MW so với phương án đã trình ngày 26/3/2021.
Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho rằng, cần tính đến bài toán kinh tế trên phạm vi cả nước chứ không chỉ vùng, địa phương. Khi đề xuất quy hoạch, các địa phương chủ yếu căn cứ vào điều kiện tự nhiên, thuận lợi của địa phương mình mà chưa tính toán được các ràng buộc tổng thể về liên kết vùng, hiệu quả kinh tế tổng thể quốc gia. Trong khi đó, cách tiếp cận của Bộ Công Thương theo phương pháp tổng thể, vừa từ dưới lên nghĩa là quan tâm tới đề xuất của địa phương để khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương và vừa từ trên xuống nghĩa là cân đối để tối thiểu hóa chi phí toàn hệ thống, cân đối vùng miền, hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người dân, nhà đầu tư. "Có thể nói Quy hoạch Điện VIII giống như chúng ta đang vẽ một bức tranh trên nền các bức tranh có sẵn sao cho hài hòa, hợp lý", Bộ trưởng mong muốn các địa phương chia sẻ cái khó với Bộ, với Chính phủ vì phải vẽ bức tranh trên nền cũ. "Chỉ có phương án tối ưu chứ không có phương án hoàn hảo".
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương: “Nếu làm quy hoạch khung định hướng với Quy hoạch điện VIII thì ngay với định mức dự kiến điện gió hiện nay thì chỉ hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận đã có thể hút hết dự án. Quy hoạch định hướng như vậy cũng có thể tạo ra một cuộc chạy đua cực kỳ khốc liệt giữa các địa phương, tỉnh nào đi trước sẽ thắng, giành một phần công suất sẽ tác động rất lớn đến tăng trưởng của địa phương. Đây là hạn chế của quy hoạch định hướng nhưng nếu quy hoạch chi tiết đến từng danh mục thì khâu tính toán của Bộ Công Thương sẽ rất nặng nề. Do đó, các nội dung của Quy hoạch điện VIII còn cần bàn bạc, rà soát kỹ lưỡng".
(Còn nữa)
Nhóm PV Baomoi.com
0 nhận xét:
Đăng nhận xét