Từ lâu nước CHLB Đức đã nổi tiếng là nước công nghiệp hàng đầu thế giới chủ trương phát triển mạnh năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng gió (Wind energy).Chuyến du lịch 4 nước EU ( Đức,Pháp,Ý,Hung) cuối năm 2005, tôi đã có cơ hội đến du lịch ở nước Đức và có thời gian lâu ở Đức để chứng kiến sự phát triển điện gió tại đây. Từ trên máy bay khi bay đến vùng trời thủ đô Berlin đã có thể quan sát thấy rất nhiều cột điện gió xây dựng trên đất liền (on shore) sừng sững trên các cánh đồng ở ven đô,chứ không phải chỉ thấy điện gió thường có ở ven biển hay trên các sườn núi cao. Theo sự hướng dẫn của Anh Tỵ, một cư dân Việt sống lâu năm ở Đức,tôi đã được đi đến tận nơi và đã được tận mắt quan sát trại điện gió (Wind Farm) ở Laasow Fuhrlander- miền Nam nước Đức. Từ đó đến nay điện gió càng được phát triển mạnh ở Đức.
Chụp ảnh với anh Tỵ và trèo lên chân cột điện gió ở Laasow-Fuhrlander
Trong năm 2010, công suất lắp đặt điện gió ở Đức là 27,2 GW. Điện gió hiện đang sản xuất khoảng bảy phần trăm tổng sản lượng điện năng của Đức. Hơn 21.607 tua-bin gió được lắp đặt trong nhiều khu vực của CH liên bang Đức và đang có kế hoạch xây dựng thêm nhiều các tua-bin gió hơn nữa.Trong năm 2011, Chính phủ Đức đã khởi thảo kế hoạch mới cho việc thương mại hóa ngày càng tăng năng lượng tái tạo , với trọng tâm đặc biệt lắp đặt các trại gió ngoài khơi ( off shore)
Đến năm 2010, điện gió ở Đức cung cấp hơn 96.100 người có công ăn việc làm và các hệ thống điện gió của Đức cũng được xuất khẩu. Trại gió Wind Turbine Laasow Fuhrländer được xây dựng vào những năm 2005 - 2006 gần ngôi làng của Laasow, Brandenburg, là các tuabin gió cao nhất thế giới. Ngoài ra hầu hết các tuabin gió cao nhất và mạnh nhất thế giới nằm ở Đức
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế của năng lượng gió ở Đức đang được giám sát chặt chẽ và có những vấn đề khác đáng xem xét như ảnh hưởng của tua-bin gió đến cảnh quan, đến đời sống của các loài chim, và ngành công nghiệp du lịch.
Về công nghệ sự thay thế các tua-bin gió thế hệ đầu tiên bằng thế hệ hiện đại đa-megawatt, đang diễn ra ở Đức. Các tua-bin hiện đại sử dụng tốt hơn năng lượng gió, hội nhập tốt hơn vào hệ thống điện kể từ khi sử dụng phương pháp kết nối với lưới điện quốc gia tương tự như các nhà máy điện truyền thống
Năng lượng gió ngoài khơi cũng có tiềm năng lớn ở Đức . Tốc độ gió trên biển là 70 đến 100% cao hơn trên đất liền và thường xuyên hơn. Một thế hệ mới điện gió 5 MW hoặc tua-bin gió lớn hơn có khả năng sử dụng đầy đủ các tiềm năng của năng lượng gió trên biển đã được phát triển với thiết kế mẫu có sẵn. Điều này làm cho hoạt động các trang trại gió ngoài khơi thêm hiệu quả một khi những khó khăn ban đầu của công nghệ đã được khắc phục
Ngày 15 tháng 7 năm 2009, công trính điện gió ngoài khơi đầu tiên ở Đức hoàn thành xây dựng, tổng cộng gồm 12 tua-bin gió kiểu Ventus Alpha được lắp đắt tại ngoài khơi ở Biển Bắc.
Năm 2011 sau tai nạn hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản, chính phủ CH liên bang Đức đang khởi thảo một kế hoạch mới cho việc thương mại hóa ngày càng tăng năng lượng tái tạo, với trọng tâm đặc biệt xây dựng các trang trại gió ngoài khơi, với các tuabin gió lớn , xây dựng cách xa bờ biển, nơi gió thổi nhất quán hơn đất liền, và nơi các tuabin gió lớn sẽ không làm phiền người dân. Kế hoạch này nhằm giảm sự phụ thuộc của Đức về năng lượng có nguồn gốc từ các nhà máy điện than và hạt nhân
Đồ thị tổng công suất đặt ( đỏ) và tổng sản lượng điện phát ra (xanh ) của ngành điện gió ở Đức
Công suất đặt (MW) và sản lượng điện của điện gió (GWh)ngày càng tăng từ năm 1990 là năm khởi đầu điện gió ở Đức được minh họa trong bàng sau :
Year | 1990 | 1992 | 1994 | 1996 | 1998 | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 |
Installed Capacity (MW) | 55 | 174 | 618 | 1,549 | 2,877 | 6,097 | 8,750 | 11,989 | 14,604 | 16,623 | 18,390 | 20,579 | 22,194 | 23,836 | 25,716 | 27,204 |
Generation (GWh) | 71 | 275 | 909 | 2,032 | 4,489 | 7,550 | 10,509 | 15,786 | 18,713 | 25,509 | 27,229 | 30,710 | 39,713 | 40,574 | 38,639 | 36,500 |
% of total electricity consumption | 0.3 | 0.4 | 0.5 | 0.8 | 1.0 | 1.3 | 1.8 | 2.7 | 3.1 | 4.2 | 4.4 | 5.0 | 6.4 | 6.6 | 6.7 | 6.0 |
Tuy toàn quốc sản lượng điện gió chỉ chiếm 7% tổng sản lượng điện quốc gia của Đức, nhưng trong từng bang tỷ lệ này khá cao, như ờ vùng Saxony-Anhalt điện gió đã sản xuất 52,1% tổng sản lượng điện tiêu thụ năm 2010.
Dưới đây là bảng thống kê tiền năng sản xuất điện hàng năm của điện gió so với sản lượng điện tiêu thụ (%) và công suất đặt (MW) ở các vùng khác nhau ở CHLB Đức
Bản đồ phát triển các trại điện gió ở CHLB Đức ( chấm đẹn < 3MW; chấm nâu 3 -30MW)
52.1 | 3,509.16 | |
45.4 | 1,549.10 | |
44.1 | 3,014.98 | |
42.8 | 4,400.78 | |
25.1 | 6,664.24 | |
12.3 | 754.18 | |
8.6 | 1,421.43 | |
8.5 | 943.27 | |
4.1 | 120.84 | |
4.0 | 2,928.11 | |
2.5 | 587.77 | |
2.4 | 111.40 | |
1.0 | 521.38 | |
0.9 | 467.08 | |
0.6 | 50.68 | |
0.0 | 2.00 | |
offshore North Sea | 120.00 | |
ffshore Baltic Sea | 48.30 |
Viêt Nam cũng đã quan tâm phát triển năng lượng gió, nhưng mới chỉ có 1 công trình qui mô ở Bình Thuận, các công trình còn lại chỉ là các cột điện gió nhỏ.Trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, trong đó khó khăn cơ bản là giá thành sản xuất bằng điện gió còn cao, hiện nay vào khoảng 10 -12 cent /kWh, trong khi đó giá mua điện của hệ thống lưới điện quốc gia chỉ chừng 7 -8 cent/kWh( đã có NN hỗ trợ ) nên chưa khuyến khích được các nhà đầu tư.
Theo Tồng sơ đồ phát triển điện VII thì tổng công suất nguồn điện gió từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng 1.000 MW vào năm 2020, khoảng 6.200 MW vào năm 2030 để điện năng sản xuất từ nguồn điện gió chiếm tỷ trọng từ 0,7% năm 2020 lên 2,4% vào năm 2030.
(Tham khảo thêm Internet )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét