e

Thứ Bảy, tháng 9 28, 2013

ANDRÉ RIEU - THE BEAUTIFUL BLUE DANUBE

Thứ Năm, tháng 9 26, 2013

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới

Dạo bước trên những con đường này, bạn sẽ cảm nhận được rõ nét hơn vị thu ấm nồng...

Không biết từ bao giờ, mùa thu được coi là mùa lãng mạn nhất trong năm, xuất hiện nhiều trong thơ ca, âm nhạc hay nhiếp ảnh và tranh vẽ. Mùa thu với những con đường trải đầy lá vàng rơi, hàng cây phong đỏ lung linh trong nắng vàng ruộm làm se lòng người mỗi sớm thu về từ khắp mọi nơi trên thế giới.

Cùng điểm lại một vài với con đường ngập tràn lá vàng dưới đây để cảm nhận rõ nét hơn hương vị mùa thu về...
 
1. Con đường Thủy sam, Hàn Quốc

Nếu bạn là fan trung thành của những bộ phim lãng mạn của xứ sở Kim chi thì hẳn bạn đã nhìn thấy con đường này trên màn ảnh. Đây chính là con đường Thủy sam nổi tiếng - một trong những con đường đẹp nhất Hàn Quốc.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 1
Con đường này dài khoảng 8,5km, chạy dọc theo Quốc lộ 24 và là một trong những tuyến đường chạy xe phổ biến nhất ở xứ Hàn. 

Con đường Thủy sam khi còn xanh mướt...

Những cây thủy sam ở đây đã hơn 40 tuổi và cao hơn 20m. Những tán cây đan vào nhau, che chắn ánh nắng Mặt trời. Vào mùa hè, tán cây thủy sam như cao vút hơn với màu xanh mướt.
 
 Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 2


Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 3
... rực rỡ khi vào thu...

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 4

Nhưng mùa thu mới là lúc con đường đẹp nhất, khi những cây thủy sam bắt đầu thay màu lá. Chúng tạo thành một con đường tuyệt đẹp và kỳ lạ khiến người đi có cảm giác như đang đi trên con đường trong một câu chuyện cổ tích vậy.

2. Đường cây bạch quả, Nhật Bản


Không ồn ào như đường bạch quả (ginkgo) nổi tiếng ở Icho Namiki (Aoyama), con đường cây bạch quả ở công viên Showa Kinen (Tachikawa) mang nét tĩnh lặng hơn. Có lẽ vì thế mà khung cảnh ở đây càng trở nên thơ mộng và quyến rũ.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 6

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 7

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 8

Hai đường cây bạch quả nổi tiếng này nằm ngay lối vào của công viên, được ngăn cách giữa một con kênh nhân tạo. Vào mùa thu, hơn 100 cây bạch quả thi nhau chuyển mình thay màu lá vàng rực rỡ. Con đường ngập tràn trong sắc lá thu vàng tạo thành một bức tranh vô cùng nên thơ.

3. Đại lộ Diaoyutai, Trung Quốc

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 9 
 

Mùa thu đến, đại lộ Diaoyutai Ginkgo, Bắc Kinh (Trung Quốc) lại bước vào mùa du lịch đẹp nhất trong năm với sắc vàng kỳ diệu, lung linh, óng ả của những hàng cây bạch quả ngàn năm tuổi.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 10

Thứ Bảy, tháng 9 21, 2013

Cirque du Soleil

Thứ Năm, tháng 9 19, 2013

Renewable Energy in Vietnam



         Biogas - Small hydro power - Wind energy - Solar energy - Biomass - Bio- fuel







Overview of renewable energy development in Vietnam
Vietnam is endowed with a relatively large amount of renewable energy resources distributed throughout the country. Biomass from agricultural products and residues is available at equivalent to 10 million tons of oil a year. Biogas energy potential is approximately 10 billion m3 a year, which can be collected from landfills, animal excrements and agricultural residues.  The technical potential of small hydropower (<30MW) is larger than 4,000MW. Solar energy is abundant with average solar radiation at 5kWh/m2 per day throughout the country. Vietnam’s geographic orientation with approximately 3400km of coastline also provides abundant wind energy at an estimated potential of 500-1000 kWh/m2 per year. These alternative sources of energy can be harnessed to meet Vietnam’s rapidly increasing demand for energy. While there has been some early success, deployment of renewable energy has not reached the country’s potentials yet.
Current legal framework to encourage development of renewable energy
Vietnam’s renewable energy policies are driven by the needs to supply sufficient energy for economic development and ensure environmental protection. Since energy demand is expected to increase four times from 2005-2030 and electricity demand  increase nine times from 2005-2025, developing renewable capacity will help Vietnam reduce its reliance on foreign sources of energy and ensuring ample energy security in the future.
The Government of Vietnam has had different policies to encourage the development of renewable energy, establish the targets for renewable energy production and move toward a competitive energy market with diverse investment and business models. In Decision No. 1855/QĐ-TTg dated December 27, 2007 approving the National Energy Development Strategy of Vietnam for the period up to 2020 with outlook to 2050 the Government encourages the development and use of new and renewable energy sources; provides financial support for the investigation, research, trial manufacture and establishment of pilot locations; and exempts for the import, production and circulation taxes.
Specifically, the Government set targets to increase the share of renewable energy in total commercial primary energy from 3% in 2010 to 5% in 2020 and 11% in 2050 (Decision No. 1885/2007/QD-TTg) and to increase the share of electricity generated from renewable resources such as wind and biomass from 3.5% of total electricity generation in 2010 to 4.5% in 2020 and 6% in 2030 (Decision No. 1208/QĐ-TTg dated July 21, 2011 or Master Plan VII).
For biofuels, the Government has targeted an annual output of 100,000 tons of E5 and 50,000 tons of B5 by 2010 which is equivalent to 0.4% of the country’s projected oil and gasoline demand; 1.8 million tons of ethanol and vegetable oil, or 5% of oil and gasoline demand by 2025 (Decision No. 177/ 2007/QD-TTg).  E5 is gasoline with a 5% volumetric of bio-ethanol content; B5 is diesel with a 5% volumetric of biodiesel content.
In order to achieve these targets, the Government has provided various incentives to investors. Renewable energy power plants will receive incentives for investment, electricity tariffs and taxes. Investors can enjoy advantages such as import tax exemption and land fee exemption over a certain period of time. In the Joint Circular 58/2008/TTLT-BTC-BTN&MT dated 4 July 2008 the Ministry of Finance (MoF) and the Ministry of Natural Resource and Environment (MONRE) prescribed the object of subsidy, the conditions of subsidy, and the method of calculating the subsidy rate for one unit of production, the annual subsidy amount, the term of subsidy, and the application process to request the subsidy for CDM projects in Vietnam to which renewable energy is eligible.
The existing incentives however are not sufficient yet to create the appropriate conditions for planning and implementing numerous renewable projects as well as the sale of renewable energy products in Vietnam. These incentives are beneficial to small hydropower projects only and not to other forms of renewable energy.

( Source : Renewableenergy.org )




Thứ Ba, tháng 9 17, 2013

Ảnh động

Bạn đã "dán mắt" lấy màn hình máy tính hàng giờ liền? Đảm bảo xem xong những bức ảnh thiên nhiên dưới đây, bạn sẽ như được bước vào một thế giới khác.
Khi xem bài viết này, ắt hẳn bạn đang "dính mặt" vào màn hình máy tính sau khi lướt đủ các loại trang web để làm việc, học tập và vui chơi... Bạn có thấy mệt mỏi chứ?

Nếu vẫn mệt mỏi ngồi lì với chiếc máy tính, hãy chịu khó ngồi thêm một lúc nữa để kéo xuống xem những hình ảnh "ma thuật" thiên nhiên dưới đây. Rất có thể bạn sẽ có cảm giác thư giãn ngay lập tức đấy.

Hãy ngắm nhìn dòng suối chảy từ dãy núi Alps xuống và thử tưởng tượng về tiếng nước chảy róc rách.

Ngắm ảnh "ma thuật" khiến bạn thư giãn ngay lập tức 1 
 
 
Cùng khoảnh khắc sóng xô vào bờ đá trên một mỏm núi thuộc bờ biển xứ Wales.
Ngắm ảnh "ma thuật" khiến bạn thư giãn ngay lập tức 2
 

Tưởng tượng bàn chân mình đang đi dưới lớp cát mềm ở bờ biển Crete (Hy Lạp) thì sao?

Ngắm ảnh "ma thuật" khiến bạn thư giãn ngay lập tức 3 
 
 

Bạn cũng có thể "ngửa mặt lên trời" ngắm mây trôi trên dãy núi Andes cũng được...

Ngắm ảnh "ma thuật" khiến bạn thư giãn ngay lập tức 4 

Có bao giờ bạn cảm nhận được làn sương sớm mai trong khu rừng nhiệt đới phả vào làn da?
Ngắm ảnh "ma thuật" khiến bạn thư giãn ngay lập tức 5

Hoặc nghĩ về tiếng sét đánh thẳng xuống đồng cỏ xa-van ở châu Phi.
Ngắm ảnh "ma thuật" khiến bạn thư giãn ngay lập tức 6

Thứ Bảy, tháng 9 14, 2013

СОПРАНО 10. "РОНДО В ТУРЕЦКОМ СТИЛЕ"

Thứ Tư, tháng 9 11, 2013

GIÀ LÀM SAO CHO...SƯỚNG



 GIÀ LÀM SAO CHO...SƯỚNG
                              (SƯỚNG LÀM SAO CHO GIÀ)
                                  
 
BS Đỗ Hồng Ngọc
 
Già thì khổ, ai cũng biết. Sanh bệnh lão tử! Nhưng già vẫn có thể sướng. Muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Già có cái đẹp của già. Trái chín cây bao giờ cũng ngon hơn trái giú ép.

Cái sướng đầu tiên của già là biết mình… già, thấy mình già, như trái chín cây thấy mình đang chín trên cây. Nhiều người chối từ già, chối từ cái sự thật đó và tìm cách giấu cái già đi, như trái chín cây ửng đỏ, mềm mại, thơm tho mà ráng căng cứng, xanh lè thì coi hổng được.

Mỗi ngày nhìn vào gương, người già có thể phát hiện những vẻ đẹp bất ngờ như những nếp nhăn mới xòe trên khóe mắt, bên vành môi, những lọn tóc lén lút bạc chỗ này chỗ nọ, cứng đơ, xơ xác… mà không khỏi tức cười! Quan sát nhìn ngắm mình như vậy, ta mới hiểu hai chữ “xồng xộc” của Hồ Xuân Hương:

“Chơi xuân kẻo hết xuân đi.
Cái già xồng xộc nó thì theo sau!” .


Có lẽ nữ sĩ lúc đó mới vào lứa tuổi 40! Thời ta bây giờ, 40 tuổi lại là tuổi đẹp nhất. Phải đợi đến 80 mới gọi là hơi già. Trong tương lai, khi người ta sống đến 160 tuổi thì 80 lại là tuổi đẹp nhất!

Tuy vậy, thực tế, già thì khó mà sướng. Con người ta có cái khuynh hướng dễ thấy khổ hơn. Khổ dễ nhận ra còn sướng thì khó biết! Một người luôn thấy mình… sướng thì không khéo người ta nghi ngờ hắn có vấn đề… tâm thần! Nói chung, người già có ba nỗi khổ thường gặp nhất, nếu giải quyết được sẽ giúp họ sống “trăm năm hạnh phúc”:

* Một là thiếu bạn!

Nhìn qua nhìn lại, bạn cũ rơi rụng dần… Thiếu bạn, dễ hụt hẫng, cô đơn và dĩ nhiên… cô độc. Từ đó dễ thấy mình bị bỏ rơi, thấy không ai hiểu mình! Quay quắt, căng thẳng, tủi thân. Lúc nào cũng đang như:

“Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài nghe ngày tháng dần qua…!”.
Thế Lữ

Người già chỉ sảng khoái khi được "rả rích" với ai đó, nhất là những ai “cùng một lứa bên trời lận đận”… Gặp đựơc bạn tâm giao thì quả là một liều thuốc bổ mà không bác sĩ nào có thể biên toa cho họ mua được!

Để giải quyết chuyện này, ở một số nước tiên tiến, người ta mở các phòng tư vấn, giới thiệu cho những người già cùng sở thích, cùng tánh khí, có dịp làm quen với nhau. Người già tự giới thiệu mình và nêu “tiêu chuẩn” người bạn mình muốn làm quen. Nhà tư vấn sẽ “matching” để tìm ra kết quả và làm… môi giới…Dĩ nhiên môi giới cho họ kết bạn. Còn sau này họ thấy tâm đầu ý hợp tiến tới hôn nhân (nếu còn độc thân) thì họ ráng chịu! Đó là chuyện riêng của họ. Ngày trước, Uy viễn tướng công mà còn phải than:

Tao ở nhà tao tao nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi bảo rằng không đến
Đến thì mi hỏi đến làm chi
Làm chi tao có làm chi đựơc
Làm được tao làm đã lắm khi…
Nguyễn Công Trứ


Rồi họ dạy người già học vi tính để có thể “chat”, “meo” với nhau chia sẻ tâm tình, giải tỏa stress…
Thỉnh thoảng tổ chức cho các cụ họp mặt đâu đó để được trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, dòm ngó, khen ngợi hoặc… chê bai lẫn nhau. Khen ngợi chê bai gì đều có lợi cho sức khỏe! Có dịp tương tác, có dịp cãi nhau là sướng rồi. Các tế bào não sẽ đựơc kích thích, đựơc hoạt hóa, sẽ tiết ra nhiều kích thích tố. Tuyến thượng thận sẽ hăng lên, làm việc cật lực, tạo ra cortisol và epinephrine làm cho máu huyết lưu thông, hơi thở trở nên sảng khóai, rồi tuyến sinh dục tạo ra DHEA (dehydroepiandosterone), một kích thích tố làm cho người ta trẻ lại, trẻ không ngờ!…Dĩ nhiên phải chọn một nơi có không khí trong lành. Hoa cỏ thiên nhiên. Thức ăn theo yêu cầu. Gợi nhớ những kỷ niệm xưa… Rồi dạy các cụ vẽ tranh, làm thơ, nắn tượng… Tổ chức triển lãm cho các cụ. Rồi trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn. Các cụ dư sức viết kịch bản và đạo diễn. Coi văn nghệ không sướng bằng làm … văn nghệ!

* Cái thiếu thứ hai là thiếu… ăn !

Thực vậy. Ăn không phải là tọng là nuốt là xực là ngấu nghiến …cho nhiều thức ăn! Ăn không phải là nhồi nhét cho đầy bao tử! Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều thứ nuốt không trôi lắm! Chẳng hạn ăn trong nỗi sợ hãi, lo âu, bực tức; ăn trong nỗi chờ đợi, giận hờn thì nuốt sao trôi? Nuốt là một phản xạ đặc biệt của thực quản dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Một người trồng chuối ngược vẫn có thể nuốt được dễ dàng! Nhưng khi buồn lo thì phản xạ nuốt bị cắt đứt!

Nhưng các cụ thiếu ăn, thiếu năng lựơng phần lớn là do sợ bệnh, kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù, làm cho họ sợ thêm! Nói chung, chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên…”
(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền…)
Trần Nhân Tông


“Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng nhớ ăn là chuyện của văn hóa ! Chuyện của ngàn năm, đâu phải một ngày một buổi. Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn…kỳ cục, không sao. Đừng ép! Miễn đủ bốn nhóm: bột, đạm, dầu, rau…Mắm nêm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm bồ hóc, tương chao… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt…là được. Cách ăn cũng vậy. Hãy để các cụ tự do tự tại đến mức có thể đựơc. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ!

Cũng cần có sự hào hứng, sảng khoái, vui vẻ trong bữa ăn. Con cháu hiếu thảo phải biết … giành ăn với các cụ. Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ bao tử.

* Cái thiếu thứ ba là thiếu vận động ! Già thì hai chân trở nên nặng nề, như mọc dài ra, biểu không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, sưng lên, xương thì mỏng ra, dòn tan, dễ vỡ, dễ gãy…! Ấy cũng bởi cả một thời trai trẻ đã “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…” (TCS)!

Bác sĩ thường khuyên vận động mà không hướng dẫn kỹ dễ làm các cụ ráng quá sức chịu đựng, lâm bệnh thêm. Phải làm sao cho nhẹ nhàng mà hiệu quả, phù hợp với tuổi tác, với sức khỏe. Phải từ từ và đều đều. Ngày xưa người ta săn bắn, hái lượm, đánh cá, làm ruộng, làm rẫy… lao động suốt ngày. Bây giờ chỉ ngồi quanh quẩn trước TV . Có một nguyên tắc “Use it or lose it!” . Cái gì không xài thì teo! Thời đại bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên “đầu thì to mà đít thì teo”. Thật đáng tiếc!

Không cần đi đâu xa. Có thể tập trong nhà. Nếu nhà có cầu thang thì đi cầu thang ngày mươi bận rất tốt. Đi vòng vòng trong phòng cũng được. Đừng có ráng lập “thành tích” làm gì! Tập cho mình thôi.. Từ từ và đều đều… Đến lúc nào thấy ghiền, bỏ tập một buổi … chịu hổng nổi là được!

Nguyên tắc chung là kết hợp hơi thở với vận động. Chậm rãi, nhịp nhàng. Lạy Phật cũng phải đúng …kỹ thuật để khỏi đau lưng, vẹo cột sống. Đúng kỹ thuật là giữ tư thế và kết hợp với hơi thở. Đó cũng chính là thiền, là yoga, dưỡng sinh… ! Vận động thể lực đúng cách thì già sẽ chậm lại. Giảm trầm cảm, buồn lo. Phấn chấn, tự tin. Dễ ăn, dễ ngủ…

Tóm lại, giải quyết đựơc “ba cái lăng nhăng” đó thì có thể già mà… sướng vậy.
 
BS ĐỖ HỒNG NGỌC

Thứ Hai, tháng 9 09, 2013

62 countries have biofuels friendly policies


According to the Global Renewable Fuels Alliance (GRFA), 62 countries now have biofuels friendly policies in place, by which ethanol production alone has replaced the need for over 2 million barrels of crude oil per day.

The significant growth in the global biofuels industry to 62 countries with biofuels friendly policies can be viewed on the GRFA’s new Interactive World Biofuels Map.


“It is amazing to watch the growth of the biofuels industry from a global perspective,” said Bliss Baker, spokesperson for the GRFA. “Today, governments have embraced biofuels in every corner of the world, from Australia to Zimbabwe.”
One of the latest countries to enact a biofuels mandate is India. Currently their mandate is set at 5% ethanol content and scheduled to increase to 10% as soon as production capacity is in place. India has ultimately set a goal of 20% for all biofuels content by 2017.
“Enacting biofuels friendly policies in developing countries and growing economies like India will be crucial for the continued growth of the global biofuels industry and reducing our reliance on crude imports,” stated Baker. “The GRFA applauds the government of India for taking the steps to reduce its reliance on crude oil and setting a plan in place to become a global leader in biofuels use and production.”
Several African countries now also have biofuels friendly policies in place. Countries like Nigeria, Ethiopia, Sudan and Mozambique all now have biofuels-friendly policies in place to encourage the use and production of renewable fuels. In total, ten African countries have implemented biofuels friendly policies to reduce their crude oil reliance.

(Source :  Renewableenergyfocus )

Thứ Bảy, tháng 9 07, 2013

YANNI 2013

Thứ Năm, tháng 9 05, 2013

Bio fuel in Viet Nam

Bio-fuel potential
Materials for biofuel production are abundant in Vietnam. They include food energy crops such as corn, soy bean, cassava, sugar cane (first generation), non-food energy crops such as jatropha, buffalo grass, algae and wastes from industry and agriculture such as animal fats, left-over food, rice straw, rice husk etc. (second generation).
Vietnam has recognized the potential for second-generation biofuels and prioritized them in the country’s biofuel development plans. The main feedstock for biofuel in Vietnam in the period up to 2015 with outlook to 2025 were identified as: (1) used fats and oils including used oils collected from food industries, (2) algae, considering its low demand of land and ecological conditions and short development cycle, (3) agricultural crops such as bagasses, cereal, sesame, peanut, coconut, and basa fish fat, (4) jatropha which can be grown on around 9 million hectares of bare land or land strips along the national highways (Nguyen Duoc, Biodiesel Vietnam: potentials and challenges, Viet Bao, 29 January 2010). These identified targets will guide future investment in the sector.
Biofuel legislation
The legal framework for bio-fuel production and trading in Vietnam is nearly complete.  Bio-fuel has been designated a key industry and bio-fuel production projects enjoy the highest level of investment incentives.
From 2007 to 2010, Vietnam worked on finalizing a legal framework to encourage the production and use of bio-fuel, design the roadmap for using bio-fuels in Vietnam, learning bio-fuel technologies, training human resources for this industry, zoning and developing material areas for bio-fuel, build bio-fuel plants to meet 0.4 percent of the country’s need for petrol by 2010. This start-up work is basically on schedule.
In 2007, two national standards for bio-ethanol and bio-diesel were issued. In October 2008, the Ministry of Industry and Trade approved projects to grow trees as materials for producing bio-fuels, to develop technologies for producing bio-fuels, to design plans and policies to support the development of bio-fuels in Vietnam and to test and apply ethanol petrol in Vietnam.
In June 2008, the Ministry of Agriculture and Rural Development also approved a project to research and develop jatropha bushes in Vietnam.
The Ministry of Finance in 2007 and 2008 issued two circulars on state funding for bio-fuel development programs.
In 2009, the Ministry of Science and Technology issued two national standards on bio-fuels.
From 2011-2015, according to planners, Vietnam will begin to produce additives, enzymes and other materials for bio-fuels and expand their production, develop new varieties of high productivity, and expand biofuel plant capacity to satisfy 1 percent of the country’s need for petrol by 2015.
From 2016 to 2025, Vietnam will build an advanced bio-fuel industry that will produce 100 percent of the national requirement for E5 and B5 fuels, i.e., will provide five percent of the fuel needed to run the nation’s motor fleets.
Biofuel projects
Vietnam first began biofuel production around 20 years ago.  However, to date Vietnam has had only some initial experience in research, pilot production and commercial production of biofuel. The actual deployment is still far below the economic and realizable potentials.
Prior to 2009 biofuel technologies in Vietnam are generally old and inefficient. Equipments are out-of-date and have low capacity and energy efficiency. Fuel collection rates and productivity are low and the cost of operation is high relative to productivity. Technologies used to mix biofuel with traditional fuel are in early stages of development. At the same time skilled human resource in this industry is still weak (Nguyen Phu Cuong, 2009).
On the demand side, biofuel is not widely used in Vietnam yet.  Sales and distribution of biofuel are still in the pilot stage (Nguyen Phu Cuong, 2009).
However since the deployment of the Decision 177 of the Government on a “Scheme for Development of Biofuel up to 2015 with a vision to 2025”, investments in biofuel research and production have increased. Biofuel research is focused on biofuel technologies, application in electricity generation and transportation use.  Unlike the situation during 1990s when researches were still spread on a broad scope and mainly focused on lab or field research, which did not link to the market, research and development of biofuel in recent years has been oriented towards applying international and regional technological advancement into Vietnam’s conditions. The government has invested in domestic research capacity to advance the biofuel sector in accordance with the framework of Project 177, as well as in other national and provincial funding programs available for scientific and technological development of Vietnam.
Pilot and commercial production has been increasing in the last 5 years in which 2009 can be considered as the year of the biofuel industry kick-off in Vietnam. During 2009 many ethanol plants were built in Quang Nam, Phu Tho, Quang Ngai (Dung Quat), Binh Phuoc and Dong Nai (To Quoc Tru, 2010). Investments have been piled up from domestic enterprises including the Petrovietnam. It is planned that by 2011, there will be 5 ethanol  producers with a total installed capacity of 365,000 tons per year - enough for mixing 7.3 million tons of E5 (Nguyen Phu Cuong, 2009).
For ethanol, some typical projects include:
1) Green Field Co. Ltd.’s production of ethanol in Quang Nam Province: 100,000 tons/year, fixed and working capital of US$ 44 million. This biofuel plant was built in 2007 and began operating in 2008 (AITVN database). It was the first bio-ethanol production plant in Vietnam (Nguyen Phu Cuong, 2009). The project was supported by preferential loan from the Government of VND 100 billion (~ US$ 550,000) to invest in a waste water treatment system. Its ethanol product satisfies the national standard TCVN-7116-2007; is guaranteed to be purchased fully by PVB a subsidiary of PVOil/ Petrovietnam (Nguyen Phu Cuong, 2009).
2) Petrovietnam’s production of ethanol 99, 7% from cassava and sugarcane in Phu Tho Province: 100 million liters/year, total investment cost is US$ 85 million, ground breaking in 2009, planned to operate in 2010.
3) Petrovietnam’s production of ethanol 99.7% from cassava in Dung Quat industrial zone: 100 million liters/year was built in 2009 and planned to operate in 2011.
4) Vietnam Bioethanol joint stock Co.’s production of ethanol in Dak Lak province: investment cost of US$ 60 million.
5) Saigon Petro’s production of ethanol 99.7% from cassava: 40 million liters/year, initial investment of US$ 5 million, operated in 2009.
6) Southern Biofuel and Petrochemical joint stock Co.’s production of ethanol 99.5% in HCMC: investment cost of US$ 2.1-2.7 million.
7) Petrosetco’s production of ethanol (in cooperation with Japan): 100 million liters/year, planned to operate in 2010.
Sources: AITVN’s database 2010 and others
For biodiesel, investments are spread on a broad range based on type of feedstock:
1) Fish fat: Minh Tu Co. Ltd’s in Can Tho City with investment cost of US$ 830,000, 2007-2009;
2) Jatropha: Dai Dong Co. Ltd’s planting of 50,000 ha jatropha in Ha Giang province, investment cost of US$ 187 million;
3) Jatropha: Saigon Mang Den Co.’s planting of 5,000 hectares of jatropha in Kon Tum Province at a total investment of US$2 million; Doan Minh Giang Co. in Son La province;  Hieu Giang Company with 170 hectares in Lam Dong province; Minh Son Co. with jatropha nursery; Duc Viet Co.; Nui Dau Co. in Lang Son province; Thien Nhien Co. in Phu Tho; SECOIN with jatropha nursery and a number of agro-forestry cooperatives in Son La, Kon Tum and Binh Thuan Province, etc;
5) Vietnam’s Institute of Industrial Chemistry’s pilot project on technology and equipment for planning an industrial scale factory producing B100 and B5: investment cost US$3.7 million, 2010-2011.
Sources: AITVN’s database 2010 and others
Although not a complete list, the activities mentioned above have depicted an active investment climate for biofuel in the last few years after being catalyzed by the Government Scheme in 2007 to develop biofuels (Decision 177).  The scheme has set the targets of producing 100,000 tons E5 per year and 50,000 tons of B5 per year by 2010, satisfying 0.4%  fuel demand of the country by that year and until 2025 biofuel production will be sufficient to satisfy 5% of domestic fuel demand. The scheme sets 6 important tasks to develop and establish a market for biofuel domestically and also on the world market.
Investments in biofuel today come from both public and private sectors in which investment from Petrovietnam and its subsidiaries have surpassed the investment from private companies. Besides biofuel production has opened up market demands for agricultural and other wastes which were not commercialized before.
Development of biofuel in the coming years will continue be guided by the government’s Project 177 “Project for Development of biofuel to 2015 with a vision to 2025” (Decision 177/2007/QD-TTg of the Prime Minister). Under the plan on bio-fuel development to 2015 with a vision to 2025, Vietnam will produce 1.8 million tons of ethanol and vegetable oils for use as fuel annually, meeting 5 percent of domestic petrol and diesel demand in the next 15 years. Support mechanisms such as state investment, subsidies, tax preferences, and other capacity building programs will help investors to reduce their investment risk and generate satisfactory returns on capital.
In the next several years, however, there remain many challenges for biofuel development in Vietnam including:
1) Production cost is still high and the sector needs Government support to compete with subsidized cost of fossil fuels;
2) Infrastructure for production and distribution are not yet fully built out;
3) Access to export market of biofuel requires strict compliance with various quality standards and other environmental and social requirements by importing countries that Vietnam does not have to capacity to comply with yet;
4) Biofuel prices in Vietnam are still higher than that in neighboring countries (Nguyen Quang Khai, 2009).
Foreign investors have shown signs of interest in Vietnam’s biofuel industry. Many development projects sponsored by JICA, the Netherlands Government, and the Korean Government have supported research pilot production of biofuel recently. The US-based Golden State Biofuel alone has pledged a US$200 million investment to develop 10 ethanol plants that utilize rice husk. The plants will use equipment manufactured in the US (Global Trends in Sustainable Energy Investment, 2010).
Vietnam is keen to engage in international cooperation and foreign direct investment for development of biofuel. Via these channels, Vietnam can mobilize both investment and experiences from other countries to develop its biofuel sector. During 2007-2009, MOIT on behalf of the Government of Vietnam, entered into cooperation protocols with Germany and Brazil on technical cooperation in feedstock planning, technology transfer, distribution and transportation system development, etc.
However, applications of foreign technologies in Vietnam should be taken with care due to many reasons. Firstly, not all technologies can be applied to Vietnam’s ecological conditions. Secondly, biofuel technologies are costly which implies a significant financial loss in case of failure. A stepwise development of the technologies consisting of pilot production and then commercial production is needed.
(Source : Copyright © GIZ Renewable Energy Project)

Thứ Ba, tháng 9 03, 2013

Rực rỡ sắc màu gốm nghệ thuật

Rực rỡ sắc màu gốm nghệ thuật của Franz Chen

Xin giớii thiệu đến với mọi người những sản phẩm gốm nghệ thuật của nghệ sĩ Franz Chen người Đài Loan. Phải nói là  những tác phẩm gốm sứ này độc đáo về ý tưởng thiết kế mẫu mã và màu sắc rực rỡ đẹp lạ thường của chúng.
Có thể nói, Franz Chen chính là người làm sống lại nghệ thuật gốm sứ Trung Hoa. Những sản phẩm sản xuất ra ngoài việc đáp ứng nhu cầu chất lượng cao cho việc sử dụng trong gia đình mà còn hướng đến chức năng trang trí làm đẹp trong nhà.
Franz Chen, người sáng lập đồng thời là chủ tịch của Franz Collection Inc, có trụ sở đặt tại Đài Loan.  Hoạt động của công ty chủ yếu tập trung vào lĩnh vực điêu khắc và thiết kế mẫu mã sản phẩm gốm sứ với các trung tâm được đặt ở Trung Quốc, Đài Loan, Châu Âu, Mỹ và hơn 4.000 cửa hàng trên khắp thế giới. 
 
 
 
Trong sự  thành công của Chen phải kể đến những đóng góp không nhỏ của huyền thoại gốm sứ Chao Sun với hơn 30 năm cống hiến, nghiên cứu các kỹ thuật cổ kính ngành gốm sứ. Chính ông là người luôn sát cánh và tư vấn nghệ thuật cho Chen trong việc kết hợp giữa nét truyền thống gốm sứ Trung Quốc với kỹ thuật tạo men sứ hiện đại nhằm tạo nên sự khác biệt cho gốm sứ nghệ thuật của Franz.
Bộ sưu tập bao gồm các dòng sản phẩm quen thuộc như: tách trà, bình trà, đồ trang sức gốm sứ tinh tế, bình sứ trang trí,... Tất cả những tác phẩm nghệ thuật này luôn mang lại cảm giác mới lạ trong nét đẹp và một sự thân thiện gần gũi thiên nhiên khi ngắm nhìn chúng!
Sưu tầm