e

Thứ Sáu, tháng 4 18, 2025

QUYẾT ĐỊNH 768/QĐ-TTG: THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHÊ DUYỆT ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH ĐIỆN VIII

 

(Chinhphu.vn) - Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).

QUYẾT ĐỊNH 768/QĐ-TTG: THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHÊ DUYỆT ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH ĐIỆN VIII
QUYẾT ĐỊNH 768/QĐ-TTG: THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHÊ DUYỆT ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH ĐIỆN VIII- Ảnh 1.

 TOÀN VĂN: QUYẾT ĐỊNH 768/QĐ-TTG ĐIỀU CHỈNH QUY HOẠCH ĐIỆN VIII

Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn vừa ký Quyết định số 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).

Quyết định nêu rõ phạm vi, ranh giới quy hoạch: Quy hoạch phát triển nguồn điện và lưới điện truyền tải ở cấp điện áp từ 220 kV trở lên, công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên lãnh thổ Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm cả các công trình liên kết lưới điện với các quốc gia láng giềng.

Phấn đấu điện thương phẩm năm 2030 đạt khoảng 500,4 - 557,8 tỷ kWh

Mục tiêu cụ thể là cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 10,0%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030, khoảng 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 - 2050.

Trong đó, điện thương phẩm: Năm 2030 đạt khoảng 500,4 - 557,8 tỷ kWh; định hướng năm 2050 đạt khoảng 1.237,7 - 1.375,1 tỷ kWh.

Điện sản xuất và nhập khẩu: Năm 2030 đạt khoảng 560,4 - 624,6 tỷ kWh; định hướng năm 2050 khoảng 1.360,1 - 1.511,1 tỷ kWh.

Công suất cực đại: Năm 2030 khoảng 89.655 - 99.934 MW; năm 2050 đạt khoảng 205.732 - 228.570 MW.

Phấn đấu đến năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia).

Về chuyển đổi năng lượng công bằng, sẽ phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo (không bao gồm thuỷ điện) phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 28 - 36% vào năm 2030. Định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 74 - 75%. Xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn.

Về phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo, dự kiến đến 2030, hình thành 02 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng bao gồm sản xuất, truyền tải và tiêu thụ điện; công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng tái tạo, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ liên quan, xây dựng hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tái tạo tại các khu vực có nhiêu tiềm năng như Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ khi có các điều kiện thuận lợi.

Phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo và sản xuất năng lượng mới phục vụ xuất khẩu sang Singapore, Malaysia và các đối tác khác trong khu vực. 

Phấn đấu đến năm 2035, quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 - 10.000 MW, có thể cao hơn tùy theo nhu cầu của bên nhập khẩu trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng.

Phát triển tối đa nguồn điện từ năng lượng tái tạo

Về phương án phát triển nguồn điện, Quyết định nêu rõ: Phát triển tối đa nguồn điện từ năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối v.v...), tiếp tục gia tăng tỷ trọng của năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện và điện năng sản xuất.

Cụ thể, đẩy mạnh phát triển điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài khơi, điện mặt trời, đặc biệt là điện mặt trời mặt nước phù hợp với khả năng hấp thụ của hệ thống, khả năng giải tỏa công suất của lưới điện, giá thành điện năng và chi phí truyền tải hợp lý gắn với bảo đảm an toàn vận hành và tính kinh tế chung của hệ thống điện, tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng lưới điện hiện có. 

Ưu tiên, khuyến khích phát triển điện gió, điện mặt trời (trong đó có điện mặt trời trên mái nhà dân, trung tâm thương mại, mái các công trình xây dựng, mái nhà xưởng, khu công nghiệp, điện mặt trời tại các cơ sở sản xuất kinh doanh) tiêu thụ tại chỗ, không đấu nối hoặc không bán điện vào lưới điện quốc gia. 

Phát triển điện mặt trời tập trung phải kết hợp với lắp đặt pin lưu trữ với tỷ lệ tối thiểu 10% công suất và tích trong 2 giờ.

Đến năm 2030, tổng công suất điện gió trên bờ và gần bờ đạt 26.066 - 38.029 MW

Đến năm 2030, tổng công suất điện gió trên bờ và gần bờ đạt 26.066 - 38.029 MW (tổng tiềm năng kỹ thuật ở Việt Nam khoảng 221.000 MW). 

Ưu tiên bố trí các nguồn điện gió quy hoạch mới tại các địa phương có tiềm năng gió tốt, điều kiện kinh tế khó khăn.

Phát huy tối đa tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi của nước ta (khoảng 600.000 MW) để sản xuất điện và năng lượng mới: Tổng công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 - 17.032 MW, dự kiến vận hành giai đoạn 2030 - 2035. Định hướng đến năm 2050 đạt 113.503 - 139.097 MW.

Ước tính công suất nguồn điện gió ngoài khơi để sản xuất năng lượng mới vào khoảng 15.000 MW vào năm 2035 và khoảng 240.000 MW vào năm 2050.

Tiềm năng điện mặt trời của Việt Nam khoảng 963.000 MW

Tiềm năng điện mặt trời của Việt Nam khoảng 963.000 MW (mặt đất - 837.400MW, mặt nước - 77.400 MW và mái nhà - 48.200 MW). 

Đến năm 2030, tổng công suất các nguồn điện mặt trời (gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời mái nhà, không tính đến các nguồn điện mặt trời theo khoản 5 Điều 10 Luật Điện lực số 61/2024/QH15) đạt 46.459 - 73.416 MW; định hướng đến năm 2050, tổng công suất 293.088 - 295.646 MW.

Bên cạnh đó, ưu tiên, khuyến khích phát triển các loại hình điện sinh khối, điện sản xuất từ rác, chất thải rắn nhằm tận dụng phụ phẩm nông lâm nghiệp, chế biến gỗ, thúc đẩy trồng rừng, xử lý môi trường ở Việt Nam. 

Năm 2030, tổng công suất nguồn điện sinh khối khoảng 1.523 - 2.699 MW; điện sản xuất từ rác, chất thải rắn khoảng 1.441 - 2.137 MW; điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 45 MW. 

Định hướng đến năm 2050, điện sinh khối khoảng 4.829 - 6.960 MW; điện sản xuất từ rác, chất thải rắn khoảng 1.784 - 2.137 MW; điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 464 MW.

Khai thác tối đa tiềm năng các nguồn thủy điện

Quyết định cũng nêu rõ: Khai thác tối đa tiềm năng kinh tế - kỹ thuật các nguồn thủy điện (tổng tiềm năng tối đa ở Việt Nam khoảng 40.000 MW) trên cơ sở bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, bảo vệ an ninh nguồn nước. 

Mở rộng có chọn lọc các nhà máy thủy điện hiện có để dự phòng công suất; khai thác thủy điện trên các hồ thủy lợi, hồ chứa nước để tận dụng nguồn thủy năng. 

Tới năm 2030, tổng công suất các nguồn thủy điện, bao gồm cả thủy điện nhỏ đạt 33.294 - 34.667 MW, định hướng năm 2050, tổng công suất đạt 40.624 MW.

Phát triển các nhà máy thủy điện tích năng với quy mô công suất khoảng 2.400- 6.000 MW đến năm 2030

Về nguồn điện lưu trữ, phát triển các nhà máy thủy điện tích năng với quy mô công suất khoảng 2.400- 6.000 MW đến năm 2030; định hướng đến năm 2050, công suất thuỷ điện tích năng đạt 20.691 -21.327 MW để điều hòa phụ tải, dự phòng công suất và hỗ trợ tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo với quy mô lớn.

Pin lưu trữ phát triển phục vụ nhu cầu hệ thống và kết hợp với năng lượng tái tạo, bố trí phân tán gần các trung tâm nguồn điện gió, điện mặt trời hoặc trên hệ thống điện tại các trung tâm phụ tải. 

Đến năm 2030 dự kiến đạt công suất khoảng 10.000 - 16.300 MW; định hướng đến năm 2050, công suất pin lưu trữ đạt 95.983 - 96.120 MW để phù hợp với tỷ trọng cao của năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, ưu tiên, khuyến khích phát triển các nhà máy điện đồng phát, nhà máy điện sử dụng nhiệt dư, khí lò cao, các sản phẩm phụ của dây chuyền công nghệ trong các cơ sở công nghiệp.

Giai đoạn 2030 - 2035 đưa vào vận hành các Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1&2

Phát triển nguồn điện hạt nhân theo đúng định hướng đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 174/2024/QH15 ngày 30 tháng 11 năm 2024, Nghị quyết số 189/2025/QH15 ngày 19 tháng 02 năm 2025 về cơ chế, chính sách đặc biệt đầu tư xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 03 tháng 01 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ. 

Giai đoạn 2030 - 2035 sẽ đưa vào vận hành các Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1&2 với quy mô đạt 4.000 - 6.400 MW. Giai đoạn đến năm 2050 hệ thống cần bổ sung khoảng 8.000 MW nguồn điện hạt nhân để cung cấp nguồn điện nền và có thể tăng lên theo nhu cầu.

Đối với nhiệt điện than: Chỉ thực hiện tiếp các dự án đã có trong quy hoạch và đang đầu tư xây dựng đến năm 2030. 

Định hướng thực hiện chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối/amoniac với các nhà máy đã vận hành được 20 năm khi giá thành phù hợp. Dừng hoạt động các nhà máy có tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.

Đối với nhiệt điện khí: Ưu tiên sử dụng tối đa khí trong nước cho phát điện. Trong trường hợp sản lượng khí trong nước suy giảm thì nhập khẩu bổ sung bằng khí thiên nhiên hoặc LNG. 

Phát triển các dự án sử dụng LNG và hạ tầng nhập khẩu LNG đồng bộ với quy mô phù hợp, sử dụng công nghệ hiện đại. Thực hiện lộ trình chuyển đổi nhiên liệu sang hydrogen khi công nghệ được thương mại hóa và giá thành phù hợp.

Nguồn điện linh hoạt: Đầu tư phát triển các nguồn điện linh hoạt để điều hòa phụ tải, duy trì ổn định hệ thống điện để hấp thụ nguồn điện năng lượng tái tạo quy mô lớn. Năm 2030, dự kiến phát triển 2.000 - 3.000 MW. Định hướng năm 2050 lên đến 21.333 - 38.641 MW.

Đẩy mạnh nhập khẩu điện từ các nước Đông Nam Á và Tiểu vùng sông Mê Kông

Về xuất nhập khẩu điện: Thực hiện kết nối, trao đổi điện năng có hiệu quả với các nước trong khu vực, bảo đảm lợi ích của các bên, tăng cường an toàn hệ thống điện; đẩy mạnh nhập khẩu điện từ các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Tiểu vùng sông Mê Kông (GMS) có tiềm năng về thủy điện. Quan tâm đầu tư, khai thác các nguồn điện tại nước ngoài để cung ứng điện về Việt Nam. 

Năm 2030, nhập khẩu khoảng 9.360 - 12.100 MW từ Lào theo Hiệp định giữa hai Chính phủ và tận dụng khả năng nhập khẩu phù hợp với điều kiện đấu nối từ Trung Quốc với quy mô hợp lý; định hướng năm 2050, nhập khẩu khoảng 14.688 MW. Nếu điều kiện thuận lợi, giá thành hợp lý, có thể tăng thêm quy mô tối đa hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu điện từ Lào về khu vực miền Bắc.

Ưu tiên phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo phục vụ xuất khẩu. Đến năm 2030, tăng quy mô xuất khẩu điện sang Campuchia lên khoảng 400 MW. 

Dự kiến đến năm 2035, quy mô công suất xuất khẩu điện sang Singapore, Malaysia và các đối tác khác trong khu vực đạt khoảng 5.000 - 10.000 MW và duy trì với quy mô 10.000 MW đến năm 2050, có thể cao hơn tùy theo nhu cầu của bên nhập khẩu trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng.

Cơ cấu nguồn điện

Đến năm 2030: Tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu) là 183.291 - 236.363 MW, trong đó:

Điện gió trên bờ và gần bờ 26.066 - 38.029 MW (chiếm tỷ lệ 14,2 - 16,1%);

Điện gió ngoài khơi 6.000 - 17.032 MW đưa vào vận hành giai đoạn 2030-2035, có thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi và giá thành phù hợp;

Điện mặt trời (gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời mái nhà, không bao gồm các nguồn điện mặt trời theo khoản 5 Điều 10 Luật Điện lực số 61/2024/QH15) 46.459 - 73.416 MW (chiếm tỷ lệ 25,3 -31,1%);

Điện sinh khối 1.523 - 2.699 MW, điện sản xuất từ rác 1.441 -2.137 MW, điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 45 MW; có thể phát triển quy mô lớn hơn nếu đủ nguồn nguyên liệu, hiệu quả sử dụng đất cao, có nhu cầu xử lý môi trường, hạ tầng lưới điện cho phép, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý;

Thủy điện 33.294 - 34.667 MW (chiếm tỷ lệ 14,7 - 18,2%), có thể phát triển cao hơn nếu bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, bảo vệ an ninh nguồn nước;

Điện hạt nhân 4.000 - 6.400 MW đưa vào vận hành giai đoạn 2030 - 2035, có thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi;

Nguồn lưu trữ 10.000 - 16.300 MW (chiếm tỷ lệ 5,5 - 6,9 %); Nhiệt điện than 31.055 MW (chiếm tỷ lệ 13,1 - 16,9%); Nhiệt điện khí trong nước 10.861 - 14.930 MW (chiếm tỷ lệ 5,9 - 6,3%); Nhiệt điện LNG 22.524 MW (chiếm tỷ lệ 9,5 - 12,3%);

Nguồn điện linh hoạt (nhiệt điện sử dụng nhiên liệu LNG, dầu, hydrogen... có độ linh hoạt vận hành cao) 2.000 - 3.000 MW (chiếm tỷ lệ 1,1 -1,3%);

Thủy điện tích năng 2.400 - 6.000 MW;

Nhập khẩu điện 9.360 - 12.100 MW từ Lào, Trung Quốc (chiếm tỷ lệ 4,0-5,1%, tăng tối đa quy mô nhập khẩu điện từ Lào theo Hiệp định giữa hai Chính phủ hoặc đẩy sớm thời gian nhập khẩu điện từ Lào về khu vực miền Bắc nếu điều kiện thuận lợi).

Với các nguồn điện than đang gặp khó khăn trong việc triển khai, vay vốn và thay đổi cổ đông sẽ cập nhật quá trình xử lý để điều chỉnh cơ cấu các nguồn điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối cho phù hợp với nhu cầu.

Về việc tham gia mua bán điện trực tiếp (DPPA) và sản xuất năng lượng mới: Theo thống kê, hiện nay số lượng khách hàng lớn tiêu thụ từ 1 triệu kWh/năm trở lên chiếm khoảng 25% tổng sản lượng điện toàn hệ thống (với khoảng trên 1.500 khách hàng).

Đến năm 2030, quy mô xuất khẩu điện sang Campuchia lên khoảng 400 MW. Dự kiến đến năm 2035, công suất xuất khẩu điện sang Singapore, Malaysia và các đối tác khác trong khu vực khoảng 5.000 - 10.000 MW, có thể cao hơn tùy theo nhu cầu của bên nhập khẩu trên cơ sở có hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an ninh năng lượng trong nước và an ninh quốc phòng.

Phương án phát triển lưới điện

Giai đoạn 2025 - 2030: Xây dựng mới 102.900 MVA và cải tạo 23.250 MVA trạm biến áp 500 kV; xây dựng mới 12.944 km và cải tạo 1.404 km đường dây 500 kV; xây dựng mới 105.565 MVA và cải tạo 17.509 MVA trạm biến áp 220 kV; xây dựng mới 15.307 km và cải tạo 5.483 km đường dây 220 kV.

Định hướng giai đoạn 2031 - 2035: Xây dựng mới 26.000 - 36.000 MW dung lượng trạm chuyển đổi điện cao áp một chiều (trạm HVDC) và 3.500 - 6.600 km đường dây truyền tải cao áp một chiều (HVDC). 

Xây dựng mới 73.800 MVA và cải tạo 36.600 MVA trạm biến áp 500 kV; xây dựng mới 7.480 km và cải tạo 650 km đường dây 500 kV; xây dựng mới 44.500 MVA và cải tạo 34.625 MVA trạm biến áp 220 kV; xây dựng mới 4.296 km và cải tạo 624 km đường dây 220 kV.

Định hướng giai đoạn 2036 - 2050: Xây dựng mới 26.000 - 36.000 MW dung lượng trạm HVDC và 3.600 - 6.700 km đường dây HVDC; xây dựng mới 24.000 MVA dung lượng trạm chuyển đổi điện cao áp xoay chiều (trạm HVAC) trên 500 kV và 2.500 km đường dây truyền tải cao áp xoay chiều HVAC trên 500kV; xây dựng mới 72.900 MVA và cải tạo 102.600 MVA trạm biến áp 500 kV; xây dựng mới 7.846 km và cải tạo 750 km đường dây 500 kV; xây dựng mới 81.875 MVA và cải tạo 103.125 MVA trạm biến áp 220 kV; xây dựng mới 5.370 km và cải tạo 830 km đường dây 220 kV.

Nhu cầu vốn đầu tư

Quyết định nêu rõ, giai đoạn 2026 - 2030: Tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 136,3 tỷ USD, trong đó: đầu tư cho nguồn điện khoảng 118,2 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 18,1 tỷ USD.

Định hướng giai đoạn 2031 - 2035: Ước nhu cầu vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 130,0 tỷ USD, trong đó: đầu tư cho nguồn điện khoảng 114,1 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 15,9 tỷ USD, sẽ được chuẩn xác trong các quy hoạch tiếp theo.

Định hướng giai đoạn 2036 - 2050: Ước nhu cầu vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải tương đương 569,1 tỷ USD, trong đó: đầu tư cho nguồn điện khoảng 541,2 tỷ USD, lưới điện truyền tải khoảng 27,9 tỷ USD, sẽ được chuẩn xác trong các quy hoạch tiếp theo.

TheoXaydungchinhsach.chinhphu.vn

Thứ Tư, tháng 4 16, 2025

Lưới điện Việt Nam thời gian qua phát thải khí nhà kính “xanh” hay ‘nâu”?

 Kết quả nghiên cứu hệ số phát thải khí nhà kính cho thấy từ năm 2015, hệ thống điện được phân bổ sang một loạt các nhà máy nhiệt điện than nên hệ số phát thải của lưới điện quốc gia tăng rất nhanh.


Điện gió ở tỉnh Quảng Trị. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)
Điện gió ở tỉnh Quảng Trị. (Ảnh: Hoài Nam/Vietnam+)

Nhóm nghiên cứu của Đại học Bách khoa Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, vừa công bố kết quả khảo sát về hệ số phát thải khí nhà kính của lưới điện Việt Nam năm 2024, trên cơ sở sử dụng phương pháp kiểm kê khí nhà kính theo hệ thống ISO 14064 và “xác định vết carbon” cho sản phẩm.

Theo đó, lượng phát thải năm 2024 ước tính ở ngưỡng 0,6811 tCO2/MWh. Hệ số phát thải này cao hơn khoảng 3,2% so với năm 2023, bởi trong năm ​qua, sản lượng điện than chiếm 49,48% tổng sản lượng điện đã tăng 17,7% so với năm 2023. Tỷ lệ này cho thấy phát thải khí nhà kính đang nghiêng về “nâu.”

Phát thải khí nhà kính theo hướng “xấu”

Chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, bà Phạm Ngọc Anh (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đại diện nhóm nghiên cứu, cho biết hệ số phát thải khí nhà kính của lưới điện quốc gia thực chất là khối lượng khí nhà kính được quy về CO2 tương đương (CO2e) do một đơn vị điện năng của hệ thống phát ra. Hệ số này phản ánh độ “xanh” của lưới điện.

Theo đó, lưới điện càng “xanh” nếu hệ số phát thải càng thấp.

Lượng phát thải của lưới điện Việt Nam được nhóm nghiên cứu cập nhật từng năm trong giai đoạn 2014-2023 theo thứ tự hệ số tCO2e/MWh, như sau: 0,6612; 0,8154; 0,9185; 0,8649; 0,9130; 0,8458; 0,8041; 0,7221; 0,6766; 0,6592.

Xu hướng phát thải trên cho thấy trước năm 2014, hệ thống nguồn điện chủ yếu là các nhà máy thủy điện nên hệ số phát thải khá thấp. Từ năm 2015-2018, hệ thống điện được phân bổ sang một loạt các nhà máy nhiệt điện than (như Quảng Ninh, Nhơn Trạch, Vũng Áng, Vĩnh Tân,...) nên hệ số phát thải khí nhà kính của lưới điện quốc gia tăng rất nhanh.

Tiếp đó, từ năm 2019, khi có sự tham gia của các nguồn điện tái tạo như điện Mặt Trời, điện gió, hệ số phát thải của lưới điện Việt Nam bắt đầu có xu hướng giảm dần theo từng năm. Tuy nhiên, theo nhóm nghiên cứu, hệ số phát thải của lưới điện Việt Nam còn thuộc loại cao so với khu vực và thế giới, lý do bởi cho đến nay, sản lượng từ các nguồn nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ lệ lớn (năm 2024 chiếm 49,5%).

“Đặc biệt tỷ lệ điện than năm 2024 tăng 17,7% so với năm 2023, chứng tỏ việc giảm dần điện từ than không hề dễ dàng,” bà Phạm Ngọc Anh chia sẻ.

Nhóm nghiên cứu trên cũng lưu ý nếu thống kê hệ số phát thải khí phát thải theo cả vòng đời của tất cả các loại hình phát điện hiện có trên thế giới, thì ngay các loại hình điện tái tạo cũng không hoàn toàn sạch. Nghĩa là xét trong cả vòng đời thì điện tái tạo vẫn phát thải khí nhà kính.

Ví dụ như điện Mặt Trời có mức phát thải thấp là 13tCO2e/GWh nhưng ở mức cao cũng có thể đạt 731tCO2e/GWh, tương đương với mức trung bình của nguồn điện phát từ dầu. Điều này phụ thuộc vào việc sử dụng năng lượng khi chế tạo pin và xử lý nó sau khi hết hạn sử dụng.

dien.png
Sản lượng điện của Việt Nam 2024. (Nguồn: Nhóm nghiên cứu)

Hay thủy điện, theo nhóm nghiên cứu, nếu xét cả vòng đời thì mức phát thải cũng cao vì hồ thủy điện đã làm mất rừng (giảm nguồn hấp thụ khí nhà kính) và có thể tạo nguồn phát thải khí mêtan trong điều kiện kị khí.

Cần có KPI và đưa ra mức phát thải chính xác

Chia sẻ về con số “ước tính” ngưỡng phát thải khí nhà kính của lưới điện Việt Nam năm 2024 là 0,6811 tCO2/MWh, đại diện nhóm nghiên cứu cho rằng lý do là bởi nhóm không tính lượng phát thải của nguồn nhập khẩu vì chỉ chiếm 1,67% tổng sản lượng điện và EVN không cho biết xuất xứ của nguồn nhập khẩu.

Nhóm nghiên cứu về hệ số phát thải khí nhà kính của lưới điện cũng không tính lượng phát thải của “nguồn khác” (với con số 446.000 tCO2/MWh) vì chỉ chiếm 0,14% tổng sản lượng điện và EVN không cho biết “nguồn khác” là nguồn nào.

Với kết quả trên, nhóm nghiên cứu cho rằng hệ số phát thải của lưới điện Việt Nam năm 2024 sẽ được cơ quan chức năng công bố (việc này, những năm trước do Cục Biến đối khí hậu công bố, mới đây đã chuyển sang Bộ Công Thương) không thể thấp hơn giá trị dự tính trên của nhóm nghiên cứu vì trên thực tế hệ số phát thải của các loại hình phát điện của Việt Nam đều ở mức phát thải khí nhà kính cao.

Lý do được nhóm nghiên cứu đưa ra là bởi nhiều nhà máy nhiệt điện than thuộc thế hệ cũ, hiệu suất thấp; các nhà máy thủy điện không được vận hành tối ưu vì nguồn nước không thật ổn định; các nguồn điện năng lượng tái tạo là điện Mặt Trời và điện gió có hiệu suất thấp do quá tải của lưới điện nên phải xả bỏ nhiều.

Theo đó, nhóm nghiên cứu đề xuất lộ trình công bố hệ số phát thải khí nhà kính của lưới điện quốc gia cần được công bố vào quý 1 của năm tiếp theo để các đơn vị, doanh nghiệp có thể được sử dụng dữ liệu gần nhất để tăng độ tin cậy khi định lượng phát thải khí nhà kính. Hệ số này không những đánh giá “độ xanh, sạch” của lưới điện, mà còn cung cấp dữ liệu cho hoạt động kiểm kê khí nhà kính của tất cả các tổ chức, doanh nghiệp trong cả nước theo Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13/8/2024 về “Danh mục các cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính (cập nhật).

Nhóm nghiên cứu cũng lưu ý việc tính toán hệ số phát thải của lưới điện quốc gia là không quá khó khăn. Vì vậy cơ quan chức năng cần tổ chức đào tạo, tập huấn cho tất cả các nhà máy phát điện để họ có thể tự tính toán được “vết” carbon cho mỗi kWh điện năng của nhà máy mình và báo cáo kịp thời cho cơ quan chức năng.

Đặc biệt, cơ quan quản lý chuyên ngành cần có KPI - định mức cụ thể đối với từng đơn vị, nhà máy điện, để theo dõi, đo lường và đánh giá tình hình giảm phát thải khí nhà kính, nhằm đảm bảo sự hiệu quả và đạt được các mục tiêu phát thải “xanh.”

0106evnnpc21-9812.jpg
Sửa chữa, vận hành lưới điện, đảm bảo sẵn sàng cung ứng điện. (Ảnh: PV/Vietnam+)

Bên cạnh đó, theo đại diện nhóm nghiên cứu, việc công bố số liệu cũng cần phải được cập nhật sớm, thường xuyên và đảm bảo tính chính xác.

Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu hy vọng theo tinh thần của Quy hoạch điện VIII, với mục tiêu giảm dần, tiến tới chấm dứt sử dụng các nguồn điện hóa thạch và hướng tới hoàn toàn sử dụng năng lượng tái tạo để đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050, hệ số phát thải khí nhà kính của lưới điện Việt Nam sẽ giảm dần. Nghĩa là điện sẽ ngày càng “xanh và sạch” hơn./.

(Vietnam+)

Thứ Hai, tháng 4 07, 2025

Công nghệ giúp nhân loại tiến tới mục tiêu Net-Zero vào năm 2025

 

Công nghệ và các giải pháp quản lý năng lượng thông minh là một trong những cách giúp giảm phát thải carbon.

Tại sự kiện "Build to Last 2025" vừa diễn ra vào ngày 3/4, các chuyên gia đến từ Schneider Electric, Aden Group và Business France Vietnam đã cùng thảo luận về công nghệ và năng lượng trong việc định hình một tương lai bền vững, hướng tới mục tiêu Net-Zero (trung hòa phát thải carbon).

Nỗ lực Net-Zero vào năm 2025. (Ảnh minh họa)

Nỗ lực Net-Zero vào năm 2025. (Ảnh minh họa)

"Lượng khí thải từ ngành xây dựng không giảm trong 7 năm qua"

Các báo cáo cho thấy, ngành xây dựng chiếm 34% tiêu thụ năng lượng toàn cầu và 21% lượng khí thải carbon, là một lĩnh vực trọng điểm trong hành trình Net-Zero. Tuy nhiên, chia sẻ tại sự kiện "Build to Last", ông Đồng Mai Lâm - Tổng Giám đốc Schneider Electric Việt Nam và Campuchia băn khoăn khi nhu cầu xây dựng nhà ở, văn phòng và nhà máy đang bùng nổ, mà tiến trình giảm phát thải carbon trong ngành này lại rất chậm. "Lượng khí thải từ ngành xây dựng không giảm trong 7 năm qua", ông Lâm chia sẻ.

Trong bối cảnh đó, Schneider Electric đang nỗ lực thay đổi thực trạng này thông qua các giải pháp công nghệ tiên tiến. Ví dụ, hệ thống BVS UPS mới được giới thiệu tại Việt Nam giúp giảm 70% diện tích trung tâm dữ liệu, đồng thời tăng tính linh hoạt và hiệu quả năng lượng. Công nghệ làm mát bằng chất lỏng (liquid cooling) đặc biệt phù hợp với các trung tâm dữ liệu AI, cũng đang được nghiên cứu và triển khai rộng rãi.

Về phía Aden Group, họ cũng đang tập trung vào số hóa toàn diện. Diễn giả Laurent Deflandre đến từ Aden Group cho biết, hành trình tối ưu hóa năng lượng của công ty bao gồm ba giai đoạn thu thập dữ liệu qua IoT, sử dụng "digital twin" để quản lý động và ứng dụng AI để tăng tốc độ phản ứng. Những công cụ này không chỉ áp dụng cho trung tâm dữ liệu mà còn cho mọi loại hình xây dựng.

Về câu hỏi "Liệu Việt Nam có thể chuyển từ vai trò người tiêu dùng công nghệ sang người sáng tạo thực thụ?", ông Laurent Deflandre lạc quan khi chia sẻ rằng, Aden Group với hơn 25 năm hoạt động tại Việt Nam, đã đầu tư hơn 50 triệu USD vào trung tâm đổi mới tại Hà Nội. Các công nghệ của họ do kỹ sư Việt Nam phát triển, như nền tảng Akila hiện được triển khai tại Pháp, Singapore và Mỹ. Sự hợp tác với các công ty như FPT Software là minh chứng cho thấy tiềm năng nội địa hóa công nghệ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, theo ông David đến từ Business France Vietnam, chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam vẫn thấp, chỉ 0,5% GDP, so với 2,5% ở Trung Quốc và 5% ở Hàn Quốc. "Phần lớn bằng sáng chế tại Việt Nam đến từ công ty nước ngoài, và bảo vệ sở hữu trí tuệ còn yếu", ông nhận xét. Dù vậy, ông ghi nhận tín hiệu tích cực khi Nvidia cam kết đầu tư vào R&D AI tại Việt Nam, điều mà ngay cả Pháp cũng chưa làm được.

Công nghệ và năng lượng xanh trên hành trình Net-Zero

Cũng tại sự kiện, ông Đồng Mai Lâm nhận định, trung tâm dữ liệu - xương sống của nền kinh tế số đang trở thành một trong những yếu tố tiêu thụ điện năng lớn nhất hiện nay. Với sự phát triển nhanh chóng của số hóa và ứng dụng AI, trung tâm dữ liệu không chỉ cần độ tin cậy mà còn phải đối mặt với bài toán tiêu thụ năng lượng khổng lồ. 

Ông Đồng Mai Lâm chia sẻ tại sự kiện “Build to Last 2025”. (Ảnh: CCIFV)

Ông Đồng Mai Lâm chia sẻ tại sự kiện “Build to Last 2025”. (Ảnh: CCIFV)

Qua đó, ông Lâm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đa dạng hóa nguồn năng lượng, đặc biệt là tăng cường sử dụng năng lượng xanh như điện mặt trời và điện gió. Ông François Magnier đến từ IDEC Group Asia Vietnam, gợi ý việc đặt trung tâm dữ liệu gần các trang trại năng lượng tái tạo, chẳng hạn như ở Ninh Thuận - nơi đã có những dự án năng lượng xanh quy mô lớn có thể là một giải pháp khả thi.

Ngoài ra, cơ chế mua - bán điện trực tiếp (DPPA) được Việt Nam ban hành vào năm 2024, là một bước tiến quan trọng trong việc hỗ trợ chuyển đổi năng lượng. DPPA cho phép các doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với nhà cung cấp năng lượng tái tạo, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào lưới điện quốc gia do EVN quản lý. Hiện có khoảng 2 - 3GW sẵn sàng đấu thầu bởi 20 tập đoàn quốc tế lớn tại Việt Nam.

Thêm một giải pháp nổi bật đã được đề cập trước đó là công nghệ "digital twin". Theo ông Đồng Mai Lâm, công nghệ này cho phép mô phỏng các kịch bản "nếu - thì" để tối ưu hóa vận hành trung tâm dữ liệu. Khi kết hợp với AI, các trung tâm dữ liệu có thể dự đoán sự cố, giảm thiểu rủi ro và tiết kiệm năng lượng đáng kể, góp phần vào mục tiêu Net-Zero.

Kết luận, các diễn giả cùng kỳ vọng với sự tham gia của các tập đoàn như Schneider Electric, Aden Group và sự hỗ trợ từ Chính phủ, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu Net-Zero và trở thành trung tâm sáng tạo công nghệ toàn cầu. Hành trình này đòi hỏi sự đồng lòng và quyết tâm từ tất cả các bên.

 Mái vòm khổng lồ trên nhà máy điện hạt nhân Chernobyl được mệnh danh là tấm lá chắn bất khả xâm phạm, song hồi tháng 2, nó đã bị xuyên thủng bởi một chiếc UAV.

Eric Schmieman đã làm việc 15 năm cho công trình kỹ thuật để đời của ông: Xây dựng "lá chắn khổng lồ" để bảo vệ lò phản ứng đã bị hư hại tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, Ukraine, sau thảm họa cách đây gần 4 thập kỷ.

Mái vòm khổng lồ bằng thép bao trùm lò phản ứng số 4 của nhà máy Chernobyl từ năm 2016 là cấu trúc có thể di động lớn nhất thế giới. Nó cao 110 m, dài 165 m, nặng gần 40.000 tấn. Hơn 45 quốc gia và tổ chức đã chi gần 1,7 tỷ USD để tạo ra nó.

"Chúng tôi đã thực hiện vô số phân tích an toàn, cân nhắc đến rất nhiều điều tồi tệ có thể xảy ra", Schmieman, 78 tuổi, kỹ sư xây dựng đã nghỉ hưu tại Washington, người từng là cố vấn kỹ thuật cấp cao của dự án, cho hay. "Chúng tôi đã cân nhắc đến động đất, lốc xoáy, gió lớn, tuyết rơi trong 100 năm, đủ mọi thứ. Nhưng thứ chúng tôi không tính đến là xung đột".

Hôm 14/2, một máy bay không người lái (UAV) mang đầu đạn nổ mạnh, ước tính có giá thành sản xuất 20.000 USD, đã xuyên thủng vòm chắn. Giới chức Ukraine cáo buộc Nga cố tình nhắm vào cấu trúc này bằng UAV tự sát Shahed 136 của Iran, song Moskva bác bỏ.

Mái vòm  Cấu trúc Ngăn chặn Mới tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl hồi năm 2018. Ảnh: Reuters

Mái vòm Cấu trúc Ngăn chặn Mới tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl hồi năm 2018. Ảnh: Reuters

Đám cháy ban đầu được dập tắt nhưng một lớp chống thấm bên trong lớp cách nhiệt của mái vòm vẫn cháy âm ỉ gần ba tuần, Artem Siryi, người đứng đầu bộ phận vận hành công trình, cho biết.

Lực lượng cứu hộ đã phải đục lỗ lớp ngoài mái vòm, tìm đám cháy và phun nước vào bên trong công trình vốn được thiết kế để luôn khô ráo nhằm ngăn ngừa ăn mòn.

Ngày 7/3, Ukraine tuyên bố đám cháy đã được kiểm soát hoàn toàn nhưng khoảng một nửa phần phía bắc của vòm chắn đã bị hư hại. Cơ quan Nguyên tử Quốc tế (IAEA) ngày 13/3 cho hay cuộc tấn công "gây ra thiệt hại lớn" ở phần phía bắc và hư hại ở mức độ thấp hơn tại phần phía nam.

Mức độ phóng xạ bên ngoài nhà máy vẫn bình thường. Nhưng chưa rõ vòm chắn khổng lồ sẽ được sửa chữa như thế nào, chi phí bao nhiêu và trong bao lâu.

Một phần mái vòm bảo vệ lò phản ứng số 4 trong nhà máy điện hạt nhân Chernobyl bị hư hại sau cuộc tập kích UAV ngày 14/2. Ảnh: AP

Một phần mái vòm bảo vệ lò phản ứng số 4 trong nhà máy điện hạt nhân Chernobyl bị hư hại sau cuộc tập kích UAV ngày 14/2. Ảnh: AP

Vụ nổ tại Chernobyl năm 1986 được coi là thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử. Nó đã giải phóng vật liệu phóng xạ vào không khí, gây ra tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng trên khắp châu Âu và khiến không ít người nghi ngờ về năng lượng hạt nhân.

Liên Xô đã xây dựng một Cấu trúc Ngăn chặn khẩn cấp bằng bê tông và thép để bao bọc lò phản ứng bị hư hại, được đặt biệt danh là "Quan tài bê tông". Chính quyền cũng thiết lập một khu vực cấm rộng gần 2.600 km2 quanh nhà máy, nơi không ai được phép sinh sống.

Số người chết được báo cáo trong vụ nổ là 31. Nhưng không ít người đã mắc bệnh và tử vong sau đó. Tỷ lệ ung thư, đặc biệt là ung thư tuyến giáp, tăng mạnh ở những khu vực tiếp xúc nhiều với phóng xạ.

"Quan tài" bao bọc lò phản ứng ngày càng trở nên mất ổn định và được cho là không thể tồn tại lâu dài. Phải mất hàng thập kỷ để tìm ra cách thay thế nó.

Vòm thép tại nhà máy Chernobyl, có tên chính thức là Cấu trúc Ngăn chặn Mới, được hoàn thiện vào năm 2016. Nó được thiết kế với mục tiêu bảo vệ lò phản ứng hỏng trong một thế kỷ. Để giảm thiểu phơi nhiễm phóng xạ, các kỹ sư lắp ráp nó cách lò phản ứng khoảng 200 m, sau đó chuyển vào vị trí bằng đường ray. Vòm chắn dày khoảng 12 m với lớp vỏ ngoài và trong đều làm bằng thép. Độ ẩm giữa các lớp vỏ được duy trì dưới 40% nhằm ngăn ngừa ăn mòn.

Theo Schmieman, lớp vỏ ngoài là chìa khóa để ngăn mưa và tuyết, lớp còn lại giúp giữ bụi phóng xạ bên trong.

Giới chức Ukraine năm 2019 đã quyết định sẽ tháo dỡ "Quan tài bê tông" để ngăn nó sụp đổ sau nhiều năm xuống cấp và dọn chất thải phóng xạ còn lưu lại ở lò phản ứng số 4. Kế hoạch này vẫn chưa được thực hiện.

Quá trình thiết lập các lá chắn ở lò phản ứng số 4 sau thảm họa hạt nhân Chernobyl. Đồ họa: Graphics News

Quá trình thiết lập các lá chắn ở lò phản ứng số 4 sau thảm họa hạt nhân Chernobyl. Đồ họa: Graphics News

Sau khi vòm thép bị hư hại, các chuyên gia hạt nhân cảnh báo có nguy cơ công trình sẽ bắt đầu bị ăn mòn và việc sửa chữa có thể mất nhiều năm. Thiệt hại này sẽ trì hoãn kế hoạch tháo dỡ "Quan tài" nói trên.

"Lý do cộng đồng quốc tế chi nhiều tiền bạc và thời gian để xây dựng công trình là họ hiểu rõ quy mô của mối đe dọa phóng xạ bên trong", Shaun Burnie, chuyên gia hạt nhân tại Greenpeace, tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động vì môi trường, người đã đến thăm nhà máy Chernobyl sau cuộc tập kích UAV, giải thích. "Nỗ lực xây dựng thứ bảo vệ châu Âu, Ukraine và thế giới khỏi mối hiểm họa bên trong đó là một thành tựu to lớn. Và giờ đây, chúng ta có một lỗ hổng trên nó, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng".

Greenpeace cuối tháng 3 công bố báo cáo cho biết cuộc tập kích UAV đã làm tổn hại nghiêm trọng các kế hoạch đối với lò phản ứng số 4 và vòm chắn đã mất đi khả năng hoạt động theo thiết kế ban đầu.

Siryi cho biết họ đang đánh giá liệu vòm chắn còn có thể sửa chữa được hay không và bằng cách nào. Ngoài đóng lỗ thủng rộng khoảng 50 m2 do UAV gây ra, công nhân còn phải bịt kín các lỗ thủng nhỏ hơn mà lực lượng cứu hỏa tạo ra để dập tắt đám cháy âm ỉ. Họ phải sửa chữa lớp vách ngăn và lớp cách nhiệt hay bất kỳ cấu trúc bên trong nào bị hư hại. Họ còn phải tìm cách giảm độ ẩm sau khi hàng trăm công nhân phun nước công suất lớn vào bên trong cấu trúc.

Giới chuyên gia lo ngại những công việc trên khó khả thi bởi công nhân sẽ phải tiếp xúc với mức độ phóng xạ cao hơn ở bên trong. Phương án di chuyển mái vòm ra chỗ khác để sửa chữa nó cũng là một thách thức vì sẽ không có gì để bảo vệ "Quan tài bê tông" vốn không ổn định suốt quãng thời gian này.

"Không thể khôi phục hoàn toàn", Siryi nói. "Để đưa nó trở lại gần nhất với trạng thái ban đầu có thể cần đến hàng trăm triệu USD".

Những mảnh vỡ của chiếc UAV tấn công mái vòm bảo vệ nhà máy Chernobyl hôm 14/2. Ảnh: AP

Những mảnh vỡ của chiếc UAV tấn công mái vòm bảo vệ nhà máy Chernobyl hôm 14/2. Ảnh: AP

Theo Jan Vande Putte, chuyên gia hạt nhân tại Greenpeace Ukraine, người ta có thể phải dỡ bỏ toàn bộ vòm chắn và thay thế nó. Đây cũng là phương án được Schmieman và Siryi đồng tình. IAEA cho hay chức năng ngăn chặn của mái vòm đã bị suy yếu và cần "nỗ lực sửa chữa rất lớn".

Đồng quan điểm, Schmieman cho biết việc sửa chữa kết cấu hoặc xây dựng một kết cấu mới sẽ cực kỳ tốn kém. Ông đề xuất tạm thời che các lỗ hổng để hệ thống thông gió bên trong có thể bắt đầu giảm độ ẩm.

"Đừng ngay lập tức tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng, lâu dài nhằm xử lý số lượng lớn các lỗ hổng, nhưng hãy tìm một cách nhanh chóng để giảm mức độ ăn mòn", ông nói.

Theo ông, UAV có thể giúp ích cho quá trình này. Do chiến sự, Ukraine đã phát triển công nghệ UAV nhanh hơn hầu hết quốc gia khác. "UAV cỡ nhỏ có lẽ đủ khả năng đánh giá thiệt hại bên trong mái vòm và thậm chí giúp sửa chữa nó", Schmieman nói.

Vũ Hoàng (Theo AFP, AP, Reuters

Thứ Sáu, tháng 4 04, 2025

 

Thủ tướng Chính phủ vừa có văn bản giao chủ đầu tư thực hiện các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

Ngày 2.4, Văn phòng UBND tỉnh Ninh Thuận cho biết đã nhận được văn bản của Thủ tướng Chính phủ về việc giao chủ đầu tư thực hiện các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

Theo đó, căn cứ Nghị quyết 189 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp lần thứ hai của Ban Chỉ đạo xây dựng nhà máy điện hạt nhân, Phó thủ tướng Bùi Thanh Sơn giao Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tiếp tục làm chủ đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Thủ tướng giao chủ đầu tư thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận- Ảnh 1.

Khu vực xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2

ẢNH: THIỆN NHÂN

Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 có 5 dự án thành phần, gồm: dự án Nhà máy điện hạt nhân; dự án hạ tầng phục vụ thi công Nhà máy điện hạt nhân; dự án khu quản lý vận hành, khu chuyên gia và trụ sở Ban quản lý dự án; dự án Trung tâm quan hệ công chúng về Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và dự án đào tạo nguồn nhân lực cho dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Phó thủ tướng Bùi Thanh Sơn giao Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) làm chủ đầu tư dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2, bao gồm 4 dự án thành phần: dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2; dự án hạ tầng phục vụ thi công nhà máy; dự án khu quản lý vận hành, khu chuyên gia và trụ sở Ban quản lý; dự án trung tâm quan hệ công chúng về Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2; triển khai đào tạo nguồn nhân lực cho dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 đảm bảo đầy đủ nhân lực cho xây dựng và vận hành dự án.

Thủ tướng giao chủ đầu tư thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận- Ảnh 2.

Đẩy nhanh tiến độ di dân, tái định cư cho người dân trong vùng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

ẢNH: THIỆN NHÂN

Đối với tỉnh Ninh Thuận, Phó thủ tướng giao tỉnh thực hiện dự án thành phần di dân, tái định cư, giải phóng mặt bằng hai dự án nhà máy điện hạt nhân nói trên theo thẩm quyền và phù hợp với quy định pháp luật.

Ngoài ra, Phó thủ tướng Bùi Thanh Sơn giao Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân; xây dựng và triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về công nghệ và an toàn điện hạt nhân nhằm hỗ trợ cho việc phát triển công nghệ hạt nhân tại Việt Nam…

Thanhnien